Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam trong giai đoạn 1932-1945. Bên cạnh Xuân Diệu, Thạch Lam có lẽ là người được biết đến rộng rãi nhất cho đến nay. Sự tồn tại lâu dài trong lòng người đọc của Thạch Lam có thể bắt nguồn từ chính quan niệm của ông: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, đồng thời làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”.
Nhận định của Thạch Lam định nghĩa văn chương bằng chính chức năng của nó. Trước hết, ông phủ định: “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên”. Đặt trong bối cảnh văn học Việt Nam thời đó, ta mới hiểu hết ý đồ bên trong lời phủ định ấy. Khi đó, có những nhà thơ, nhà văn cầm bút với quan điểm xem văn chương là nơi “thoát lên tiên”, là không gian của “sầu và mộng”, là nơi để con người trốn tránh hiện thực bằng cách chìm vào quá khứ, rượu, thuốc phiện và trụy lạc. Thạch Lam lên tiếng phủ định những điều ấy và khẳng định “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, đồng thời làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam nhấn mạnh văn học như một vũ khí đặc biệt, hướng tới tấn công những thứ “giả dối và tàn ác” trong xã hội, đồng thời bảo vệ và bồi đắp tâm hồn con người trở nên “trong sạch và phong phú hơn”. Đây là thứ vũ khí không gây ra thương tích về thể chất nhưng có thể vạch trần cái xấu xa, nhơ nhuốc của cuộc đời, là thanh gươm vô hình có khả năng mổ xẻ những mặt trái của xã hội, đồng thời là con dao trên tay người bác sĩ để chữa lành biết bao căn bệnh tâm hồn. Nhận định của Thạch Lam khẳng định chức năng của văn học là vạch trần cái xấu xa của xã hội, nhưng không chỉ dừng lại ở đó, mà còn cảnh báo và thức tỉnh lương tâm con người, bồi đắp tâm hồn con người trở nên phong phú hơn.
Nhận định của Thạch Lam xuất phát từ chức năng nhận thức của văn học. Văn học phản ánh hiện thực xã hội rộng lớn thông qua cái nhìn chủ quan của tác giả. Hiện thực xã hội không bao giờ chỉ toàn những điều tốt đẹp. Bên cạnh những mặt tích cực, trong xã hội luôn tồn tại những mặt trái, những sự xấu xa ẩn chìm dưới bề mặt tưởng chừng như yên ả. Sứ mệnh của văn học là bằng sự nhạy cảm, tinh tế của tâm hồn nhà văn mà đi vào bề sâu của cuộc sống để phát hiện và phản ánh những cái xấu xa ấy. Nhìn vào dòng chảy lịch sử văn học, dễ dàng nhận thấy những tác phẩm được coi là tuyệt tác, sống mãi trong lòng người đọc đều là những tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc. Đó là “Truyện Kiều” vạch trần một xã hội “đồng tiền” nhơ nhuốc chà đạp lên sự sống và hạnh phúc của con người, là “Tấn trò đời” mổ xẻ một xã hội tôn thờ làm giàu mà đánh mất hết tình cảm đạo đức,... Đó cũng là những sáng tác của Nam Cao khi nhìn thấy sự tha hoá, biến chất về mặt đạo đức ở những người nông dân tưởng chừng lương thiện nhất, là tác phẩm của Vũ Trọng Phụng khi phơi bày một xã hội nơi một tên lưu manh cũng có thể leo lên đỉnh cao của giới thượng lưu. Nếu văn học chỉ nói về toàn những điều tốt đẹp, về “mặt sáng” của cuộc sống thì nó rất dễ trở thành một liều thuốc ru ngủ con người, làm cho con người chìm trong ảo tưởng mà không nhận thức được hiện thực cuộc sống của mình. Văn chương nói về cái xấu, cái ác không phải để hướng con người đến cái xấu, cái ác, mà là để hướng con người đến những gì “trong sạch” hơn. Không chỉ có văn học, pháp luật và triết học, thậm chí là tôn giáo cũng đều có “tham vọng” hướng con người đến những điều tốt đẹp. Nhưng xuất phát từ đặc trưng của mình, văn học đã đi một con đường riêng để đến được cái đích chung ấy. Nếu những ngành khác tác động đến con người ở phương diện lý trí, thì văn học lại tác động đến con người ở khía cạnh tình cảm. Bởi như Thạch Lam khẳng định, đây là một thứ khí giới “thanh cao”. Thanh cao bởi nó được làm từ cái đẹp. Văn học là những tình cảm, rung động của tấm lòng nhà văn thể hiện trên trang giấy bằng ngôn từ nghệ thuật. Chính vẻ đẹp của tâm hồn nhà văn và ngôn từ nghệ thuật ấy sẽ là cây cầu chạm tới tâm hồn độc giả, để độc giả “tự bước lên đường ấy”, tự làm trong sạch và phong phú hơn tâm hồn mình.
Ở Việt Nam, sức mạnh ấy của văn học có lẽ rõ nhất trong những sáng tác của Nam Cao. Khả năng phản ánh hiện thực, “tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác” của văn học được Nam Cao đẩy đến tận cùng. Trong những trang viết của mình, Nam Cao khắc hoạ sinh động hình ảnh làng quê Việt Nam trong cái cảnh một cổ hai tròng khắc nghiệt của xã hội thực dân nửa phong kiến. Những người nông dân bị bóc lột đến xơ xác, tiêu điều, bị đẩy đến tận cùng của khốn cảnh. Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao vạch trần bộ mặt giả dối của bọn cường hào ác bá phong kiến mà tiêu biểu là Bá Kiến. Nam Cao vạch ra cái bịp bợm, gian manh đến độc ác của Bá Kiến khi đẩy Chí Phèo – một người nông dân lương thiện vào tù chỉ vì cơn ghen không chứng cớ, rồi lại quay mặt ngọt nhạt để biến Chí Phèo trở thành tay sai của mình, phá hoại những “đối thủ” của hắn trong làng. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc phản ánh và vạch trần cái xấu xa bên ngoài, xấu xa của xã hội thì Nam Cao không thể tách mình khỏi những nhà văn hiện thực phê phán khác. Trong tác phẩm của Nam Cao, thế giới “giả dối và tàn ác” không chỉ nằm ở bên ngoài mà còn chính là thế giới nội tâm của con người. Bằng mắt quan sát sắc sảo và tâm hồn tinh tế của một nhà văn, Nam Cao nhận ra sự tha hoá, xấu xa của nội tâm con người trước tác động của xã hội. Nam Cao khắc hoạ những con người sẵn sàng bỏ hết lòng tự trọng vì miếng ăn (“Tư cách mõ”), rồi cũng từ miếng ăn ấy mà chịu cái chết đau đớn (“Một bữa no”). Ám ảnh hơn cả, đó là những con người đặt miếng ăn lên cao hơn cả tình thân. Đó là nhân vật người bố trong “Trẻ em không được ăn thịt chó” – một người sẵn sàng lừa cả con cái của mình vì miếng ăn. Câu chuyện làm cho người đọc dở khóc dở cười rồi lại ngậm ngùi, thương xót trước cảnh những đứa con ngây thơ chờ đợi trong xó bếp, mà cuối cùng phải băn khoăn, trăn trở trước nhân cách của con người. Trước hiện thực nông thôn Việt Nam trước cách mạng, nếu những nhà văn khác chỉ thấy cái đói, cái nghèo thì Nam Cao – vượt lên bằng tấm lòng nhân đạo cao cả – nhìn thấy cả những cái chết của tâm hồn, đẩy sức tố cáo của tác phẩm đối với một xã hội giả dối và tàn ác lên một tầm mức khác.
Đọc văn của Nam Cao đau đớn, chua xót, nhưng người đọc lại không mất niềm tin vào cuộc sống mà ngược lại, dường như lại được thanh lọc, bồi đắp tâm hồn “trong sạch và phong phú hơn”. Trước hoàn cảnh thực tại khắc nghiệt ấy, Nam Cao vẫn phát hiện và trân trọng, tin tưởng vào điểm sáng trong tâm hồn con người. Tiêu biểu cho tư tưởng ấy của Nam Cao chính là nhân vật lão Hạc. Lão nghèo khổ, già nua nhưng sáng lên ở lão lại là tình yêu thương con sâu sắc, nhân cách đáng trọng và lòng tự trọng mà nhiều người tưởng như là gàn dở. Lão tự trách mình và tự trừng phạt mình chỉ vì trót lừa một con chó, và đến chết vẫn không muốn phiền đến hàng xóm xung quanh. Đặt trong