Những câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích từ lâu đã trở thành một phần quen thuộc trong tuổi thơ, khắc sâu vào ký ức của nhiều thế hệ trẻ em Việt Nam. Viết một bài văn kể lại truyện truyền thuyết hoặc cổ tích là một đề tài tập làm văn thú vị trong chương trình Ngữ văn 6 thuộc bộ sách Cánh Diều.
Mục lục [Ẩn]
11 Mẫu bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích ngắn gọn
Mẫu số 1
Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nhỏ bé, có hai anh em sống cùng nhau trong một túp lều đơn sơ. Cha mẹ của họ mất sớm, để lại cho hai anh em những kỷ niệm đẹp đẽ và tình thương vô bờ bến. Họ hết lòng yêu thương nhau, cùng nhau làm lụng vất vả để có đủ cơm ăn áo mặc. Cuộc sống dù không phong phú, nhưng ấm áp và đầy nghĩa tình. Tuy nhiên, mọi chuyện bắt đầu thay đổi khi người anh kết hôn.
Kể từ khi có vợ, người anh dần trở nên lười biếng và chỉ chú tâm vào cuộc sống an nhàn. Mọi gánh nặng trong gia đình giờ đây đổ dồn lên vai người em. Một ngày nọ, người anh, trong cơn tham lam, đã gọi em trai đến để phân chia gia sản. Với sự ích kỷ và tính toán, người anh đã nhận hết của cải, để lại cho em một túp lều tranh đơn sơ và một cây khế trước cửa. Cây khế, mặc dù không đáng giá, nhưng lại là tài sản quý giá mà người em yêu quý.
Người em và vợ rất chăm sóc cây khế, cho nó nước, bón phân và vun xới hàng ngày. Cây khế lớn lên, ra rất nhiều quả vào mùa. Khi nhìn thấy những quả khế chín mọng, người em bàn với vợ rằng sẽ hái khế đem ra chợ bán, nhằm cải thiện cuộc sống. Hôm đó, khi người em vừa định trèo lên cây để hái, bỗng nhiên, một con chim lớn đậu trên cành và bắt đầu ăn khế. Suốt một tháng liền, chim hàng ngày đều ghé thăm, ăn khế.
Người vợ, lo lắng về việc gia đình mình không còn gì để sống, liền lên tiếng khẩn cầu với chim:
- "Chim ơi! Ngươi ăn khế của chúng tôi thì gia đình tôi biết lấy gì để sống đây?"
Bất ngờ, chim dừng lại, nhìn người vợ và cất tiếng đáp:
- "Ăn một quả, ta sẽ trả một cục vàng. Hãy làm một cái túi ba gang để mang đi."
Nói xong, chim bay đi. Người em và vợ quyết định làm theo lời chim. Sáng hôm sau, khi chim trở lại, nó dẫn người em đến một hòn đảo giữa biển khơi. Trên đảo có một hang động rộng lớn, bên trong chứa đầy vàng bạc châu báu lấp lánh. Người em cảm thấy hồi hộp và ngỡ ngàng trước cảnh tượng đó, nhưng do hang sâu và tối tăm, chàng chỉ dám nhặt ít châu báu bên ngoài rồi ra hiệu cho chim trở về.
Từ đó, cuộc sống của người em và vợ thay đổi hoàn toàn. Họ xây dựng một ngôi nhà khang trang gần túp lều tranh cũ và cây khế. Không chỉ lo cho cuộc sống của mình, họ còn giúp đỡ những người nghèo khổ trong làng. Danh tiếng của họ nhanh chóng lan xa, và câu chuyện về sự đổi đời của người em đến tai người anh.
Một buổi sáng đẹp trời, người anh không thể kiềm chế sự ghen tị, đã đến nhà em trai với vẻ mặt niềm nở nhưng trong lòng đầy toan tính. Anh ta tìm cách hỏi chuyện và gạ gẫm để đổi lấy túp lều và cây khế. Người em, vốn có tấm lòng nhân hậu, đã đồng ý để người anh cùng gia đình chuyển đến sống trong túp lều.
Từ khi chuyển đến, người anh và vợ chỉ biết ăn và ngồi chờ chim thần đến. Khi mùa khế chín, chim trở về, và cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết để thu hút sự chú ý của chim. Chim thần cũng nói lại như lời của người em. Người anh, tham lam, đã bảo vợ may cho một chiếc túi lớn gấp ba lần để có thể chứa được nhiều vàng hơn.
Sáng hôm sau, chim thần lại đến và đưa người anh đến hòn đảo. Lần này, người anh choáng ngợp trước kho báu khổng lồ trong hang. Không thể cưỡng lại sự mê hoặc của vàng bạc châu báu, anh ta cố gắng nhét đầy túi. Tuy nhiên, khi leo lên lưng chim để trở về, vì túi quá nặng, chim chỉ có thể bay chậm và gặp nhiều khó khăn.
Chim càng bay càng mệt mỏi, hai cánh dần rũ xuống. Trên đỉnh biển, sức nặng của người anh cùng túi vàng đã làm chim kiệt sức. Cuối cùng, khi không thể chịu đựng thêm, chim buông tay và đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn trôi, mất tích trong làn nước sâu thẳm. Còn chim, chỉ bị ướt lông ướt cánh, nó vùng lên và bay về phía núi rừng, để lại câu chuyện bi thảm của lòng tham và sự ích kỷ trong lòng người dân.
Từ đó, người em sống hạnh phúc bên vợ, và cây khế vẫn tỏa bóng mát bên ngôi nhà khang trang, trở thành biểu tượng cho sự kiên trì, nhân hậu và bài học về lòng tham trong cuộc sống.
Mẫu số 2
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần thất bại. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa, có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Đến khi kéo lưới lên thấy nằng nặng, nghĩ rằng sẽ kéo được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá thì chỉ thấy một thanh sắt. Chàng vứt xuống sông, rồi lại thả lưới ở chỗ khác. Kì lạ thay, liên tiếp ba lần đều vớt được thanh sắt nọ. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa thì phát hiện ra đó là một thanh gươm.
Về sau, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một lần nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Thận. Bỗng nhiên thấy phía góc nhà lóe sáng, Lê Lợi tiến đến gần xem là cầm lên xem là vật thì gì thì thấy hai chữ “Thuận Thiên”. Song lại không ai nghĩ đó là lưỡi gươm thần.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút mỗi người một ngả. Lúc đi ngang qua một khu rừng, Lê Lợi thấy có ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm trôi qua, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đến đâu thắng đến đó. Thanh thế ngày một vang xa. Quân Minh được dẹp tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua cho cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng thì thấy Rùa Vàng nổi lên đòi lại thanh gươm thần:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Sau khi nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Mẫu số 3
Vào thời kỳ giặc Minh xâm lược nước ta, chúng coi nhân dân Việt Nam như cỏ rác, thực hiện nhiều hành động bạo ngược và tàn ác. Giữa cảnh đất nước chìm trong đau thương, ở vùng núi Lam Sơn, những nghĩa quân đã nổi dậy, quyết tâm chống lại ách đô hộ của giặc. Tuy nhiên, trong những buổi đầu, sức mạnh của họ còn non yếu, dẫn đến nhiều lần thất bại. Nhận thấy sự bất lực của nghĩa quân, đức Long Quân đã quyết định giúp đỡ họ bằng cách cho mượn gươm thần, một bảo vật linh thiêng để có thể giết giặc, cứu nước.
Trong lúc ấy, ở xứ Thanh Hóa, có một người đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, như thường lệ, Thận thả lưới ở một bến vắng. Khi kéo lưới lên, anh cảm thấy nặng trĩu, lòng tràn đầy hy vọng sẽ bắt được một mẻ cá lớn. Nhưng khi thò tay vào, anh chỉ thấy một thanh sắt. Vốn không nghĩ ngợi nhiều, anh vứt nó xuống sông và tiếp tục thả lưới ở chỗ khác. Kỳ lạ thay, ba lần liên tiếp, Thận đều vớt được thanh sắt ấy. Cuối cùng, anh quyết định đưa thanh sắt về nhà, đốt lửa để thử nghiệm. Khi ánh lửa hắt lên, anh nhận ra đó chính là một thanh gươm.
Sau khi tìm ra thanh gươm, Lê Thận đã gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, trong một chuyến thăm nhà Thận, chủ tướng Lê Lợi cùng các tùy tùng tình cờ phát hiện một ánh sáng lóe lên ở góc nhà. Lê Lợi tiến lại gần, nhặt lên và thấy hai chữ “Thuận Thiên” khắc trên lưỡi gươm. Tuy nhiên, không ai trong số họ nhận ra rằng đây chính là lưỡi gươm thần mà nghĩa quân đang tìm kiếm.
Trong một cuộc truy đuổi của giặc, Lê Lợi và các tướng buộc phải tách ra mỗi người một hướng. Khi đi qua một khu rừng, Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên và phát hiện ra đó là một cái chuôi gươm được nạm ngọc quý giá. Ngay lập tức, ông nhớ đến lưỡi gươm mà Lê Thận đang sở hữu, và mang chuôi gươm về để tra vào lưỡi gươm. Kỳ diệu thay, hai phần này vừa khít với nhau như được chế tác dành riêng cho nhau.
Thời gian trôi qua, nhờ có gươm thần hỗ trợ, nghĩa quân của Lê Lợi đã giành chiến thắng liên tiếp. Thanh thế của họ ngày càng vang xa, và cuối cùng quân Minh đã bị đánh tan. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Một ngày, khi vua cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng, ông bất ngờ nhìn thấy Rùa Vàng nổi lên mặt nước và đòi lại thanh gươm thần:
- “Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.”
Nghe Rùa Vàng nói, Lê Lợi không ngần ngại, liền đem gươm báu trả lại, lòng tràn đầy cảm kích:
- “Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.”
Sau khi nhận lời cảm ơn, Rùa Vàng gật đầu rồi từ từ lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đã đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm, hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm, như một biểu tượng thiêng liêng cho sự kiên cường và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Mẫu số 4
Ngày xưa, có một vị vua trị vì trong một vương quốc hùng mạnh và thịnh vượng. Một hôm, ông cảm thấy cần phải tìm kiếm những nhân tài xuất sắc để giúp đất nước ngày càng phát triển. Với tâm tư đó, nhà vua đã giao cho một viên quan có trách nhiệm đi khắp các làng quê để tìm kiếm những người có tài năng xuất chúng.
Trong một chuyến đi, viên quan ghé thăm một ngôi làng nhỏ, nơi có hai cha con đang chăm chỉ cày ruộng. Viên quan, với phong thái tự tin, tiến lại gần và hỏi người cha: “Này, lão nông! Trâu của lão mỗi ngày cày được mấy đường?”. Người cha do dự, chưa kịp trả lời thì cậu bé khoảng bảy, tám tuổi, đang cầm cày, bỗng lên tiếng hỏi lại viên quan một câu sắc sảo: “Nếu ông trả lời đúng được rằng ngựa của ông đi được mấy bước trong một ngày, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày được mấy đường”.
Nghe vậy, viên quan lập tức ngẩn người, không biết phải đáp lại ra sao. Thực sự, ông cảm thấy vui mừng trong lòng vì đã tìm ra được người thông minh. Sau đó, ông hỏi hai cha con tên tuổi, quê quán và không quên ghi chú lại, rồi phóng ngựa đi thẳng.
Một thời gian sau, nhà vua quyết định ban thưởng cho làng của cậu bé, trao tặng ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực. Tuy nhiên, nhà vua cũng ra lệnh rằng trong vòng một năm, phải nuôi ba con trâu này sinh sản thành chín con, nếu không thì cả làng sẽ bị trừng phạt. Nghe tin này, cả làng cảm thấy hoang mang và lo lắng.
Thấy vậy, cậu bé đã bàn bạc với cha và đưa ra một kế hoạch. Cậu đề xuất rằng nên giết hai con trâu và sử dụng một thúng gạo nếp để đãi cả làng một bữa thật hoành tráng, phần còn lại bán đi để lấy tiền cho hai cha con lên kinh lo liệu công việc của làng. Làng đồng ý, nhưng để đảm bảo, họ bắt cha con phải viết giấy cam đoan trước khi thực hiện kế hoạch.
Chẳng bao lâu sau, hai cha con lên đường vào kinh. Đến hoàng cung, cậu bé bảo cha đứng chờ bên ngoài, còn mình lẻn vào trong lúc mấy lính canh không để ý và bắt đầu khóc to. Nhà vua thấy vậy liền sai lính dẫn cậu vào, hỏi: “Thằng bé kia, sao mày lại khóc? Có việc gì mà đến đây làm ồn vậy?”.
Cậu bé vờ khóc nói: “Tâu đức vua, mẹ con mất sớm, cha con không chịu lấy vợ để có em bé chơi cùng con, cho nên con mới khóc. Dám mong đức vua thương tình mà phán bảo cha con cho con được nhờ!”.
Vua và các triều thần nghe thấy lời cậu bé liền bật cười. Vua đáp lại: “Nếu mày muốn có em, thì cha mày phải lấy vợ khác chứ. Ông ấy là giống đực thì sao có thể đẻ được!”.
Với một nụ cười tươi, cậu bé thưa: “Vậy tại sao làng chúng con lại có lệnh bắt nuôi ba con trâu đực để đẻ thành chín con cho vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được?”.
Vua nghe vậy thì cười to và bảo: “Ta chỉ thử lòng thôi mà! Lẽ ra làng các người nên đem trâu ra làm thịt mà ăn với nhau chứ?”.
Cậu bé đáp: “Dạ, làng biết đó là lộc của vua ban nên đã tổ chức cỗ ăn mừng rồi”. Nghe vậy, nhà vua chỉ mỉm cười và không nói gì thêm.
Sau đó, khi hai cha con đang ăn cơm tại một quán trọ, thì bỗng có sứ giả từ cung vua mang đến một con chim sẻ, cùng lệnh cho cậu bé phải làm thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé nhanh trí đã nhờ cha lấy một cây kim và đưa cho sứ giả, rồi nói: “Ông hãy cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim”. Sau đó, nhà vua gọi hai cha con vào cung và thưởng cho họ rất hậu.
Trong thời gian đó, một nước láng giềng đã nhòm ngó và có ý định xâm lược nước ta. Để thăm dò, họ đã sai sứ thần mang đến một cái vỏ ốc vặn dài, có hai đầu rỗng và thử thách xem ai có thể xâu một sợi chỉ xuyên qua đường ruột của con ốc. Các đại thần trong triều đều vò đầu bứt tai nhưng không thể tìm ra cách giải quyết. Cuối cùng, triều đình buộc lòng phải cho sứ thần ở lại quán trọ để kéo dài thời gian tìm kiếm người giải đố.
Một hôm, cậu bé tình cờ nghe được câu chuyện và bèn bày cho viên quan một cách đơn giản. Cậu hát lên một câu hát vui vẻ, chỉ cách xâu chỉ qua vỏ ốc như sau: “Tang tình tang! Tính tình tang. Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng. Bên thời lấy giấy mà bưng, bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang. Tang tình tang…”.
Viên quan ngay lập tức mừng rỡ trở về triều đình và thực hiện theo lời chỉ dẫn của cậu bé. Nhờ vậy, sợi chỉ đã xuyên qua ruột con ốc một cách dễ dàng. Nghe được điều này, sứ giả nước láng giềng vô cùng thán phục trước trí thông minh của người dân nước ta.
Về sau, nhà vua đã phong cho cậu bé thông minh này làm trạng nguyên, và cho cậu vào cung để học tập và bồi dưỡng tài năng của mình, để phục vụ cho đất nước trong tương lai. Câu chuyện về trí thông minh của cậu bé không chỉ mang lại vinh quang cho bản thân mà còn là niềm tự hào cho cả làng quê nơi cậu sinh ra.
Mẫu số 5
Hùng Vương thứ mười tám, vị vua nổi tiếng vì tài đức vẹn toàn, có một người con gái xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Nàng không chỉ sở hữu vẻ đẹp như hoa như ngọc mà còn có tính nết dịu dàng, hiền thục. Nhà vua hết mực yêu thương con gái mình, vì vậy ông muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng, một người có thể cùng nàng xây dựng hạnh phúc và mang lại niềm tự hào cho dòng tộc.
Khi nghe tin vua Hùng muốn kén rể, hai chàng trai tài giỏi đã đến xin cầu hôn. Một người là Sơn Tinh, sống ở vùng núi Tản Viên, nổi tiếng với khả năng kỳ diệu: chỉ cần vẫy tay về phía đông, ngay lập tức những cồn bãi sẽ nổi lên, còn khi vẫy tay về phía tây, từng dãy núi đồi sẽ hiện ra. Sơn Tinh được người dân ca ngợi và yêu quý vì sức mạnh của mình và tài năng siêu phàm. Chàng không chỉ là một người dũng mãnh mà còn là người có trái tim nhân hậu.
Chàng trai thứ hai, Thủy Tinh, cũng không kém phần xuất sắc. Với khả năng gọi gió, hô mưa, chàng có thể khiến thời tiết biến đổi theo ý mình. Thủy Tinh luôn tự tin với sức mạnh của mình, và từ lâu đã được biết đến như một vị thần mạnh mẽ, có khả năng kiểm soát nước và thiên nhiên. Cả hai chàng trai đều có những tài năng phi thường, khiến vua Hùng không biết nên chọn ai cho con gái mình.
Quyết định không dễ dàng, vua Hùng liền triệu tập hai chàng trai đến và đưa ra một thử thách công bằng. Ông nói:
- "Cả hai đều rất tài giỏi và đều làm ta hài lòng. Vậy nên, nếu ai mang sính lễ đến trước vào ngày mai sẽ được phép rước Mị Nương về làm vợ. Sính lễ sẽ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nếp bánh chưng, và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi."
Sáng hôm sau, Sơn Tinh nhanh chóng chuẩn bị lễ vật và xuất hiện trước hoàng cung, mang theo tất cả những gì cần thiết. Nhờ sự khéo léo và tài năng của mình, chàng đã sắp xếp mọi thứ một cách hoàn hảo, và vì vậy, Mị Nương đã được gả cho Sơn Tinh. Còn Thủy Tinh, đến sau, không thể lấy được vợ, liền nổi giận. Sự kiêu hãnh của chàng bị tổn thương, và trong cơn tức giận, Thủy Tinh quyết định phát động chiến tranh, mang quân đánh Sơn Tinh.
Thủy Tinh gọi gió, hô mưa, tạo ra những cơn dông bão khủng khiếp, khiến đất trời rung chuyển. Nước từ trên núi đổ về, làm cho đồng ruộng và nhà cửa chìm trong biển nước, dòng nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, biến thành Phong Châu thành một vùng đất lềnh bềnh trên mặt nước. Trước cảnh tượng thê thảm đó, Sơn Tinh không hề nao núng, chàng lập tức dùng sức mạnh của mình bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi để ngăn chặn dòng nước lũ.
Cuộc chiến giữa hai bên kéo dài ròng rã suốt nhiều tháng trời. Mặc dù Thủy Tinh rất mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, sức mạnh của chàng đã cạn kiệt. Sơn Tinh, với sự kiên cường và trí tuệ, đã đứng vững trước mọi thử thách. Thủy Tinh đành phải rút quân, nhưng từ đó, oán thù giữa hai người càng thêm sâu nặng. Hằng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều bại trận. Hình ảnh cuộc chiến giữa hai thần thoại này trở thành một biểu tượng cho sự đấu tranh không ngừng của tự nhiên, và sự kiên trì của con người trước mọi thử thách, khiến cho câu chuyện của họ sống mãi trong lòng người dân Việt Nam.
Mẫu số 6
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua hết mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.
Nghe tin nhà vua muốn kén rể, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.
Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng không biết chọn ai. Vua bèn ra lệnh:
- Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về. Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ liền nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.
Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.
Mẫu số 7
Câu chuyện xoay quanh ba nhân vật, gồm Mặt Trời, Mặt Trăng và Gà Trống. Theo chuyện kể, năm xưa, cả ba người bạn này rất yêu thương nhau, cùng sống hạnh phúc và vui vẻ trên bầu trời cao. Một ngày nọ, Mặt Trăng xin đổi chiếc áo trắng của mình để lấy cái mũ đỏ của Gà Trống. Nhưng do không thích áo trắng nên Gà Trống không đồng ý đổi. Ngờ đâu, Mặt Trăng vậy mà bất chấp tất cả, muốn cướp lấy mũ của bạn. Cả hai tranh dành, xô đẩy nhau khiến mũ của Gà Trống rơi xuống mặt đất. Ngay lập tức, Gà Trống bay theo để tìm lại mũ. Nhưng dưới mặt đất tối quá, chú chẳng nhìn thấy gì để tìm cả. Thế là Gà Trống cất tiếng gọi Mặt Trời dậy, chiếu sáng khắp trần gian giúp mình. Nhờ ánh sáng của Mặt Trời, Gà Trống tìm thấy mũ đang mắc lại trên ngọn cây. Tuy nhiên, sau khi đội mũ, Gà Trống nhận ra mình không thể nào bay lên trời được cả. Mặt Trời muốn giúp bạn nhưng lại không biết phải làm gì. Sau một hồi vật lộn, Gà Trống đành bỏ cuộc, chấp nhận việc ở lại mãi trên mặt đất. Mặt Trời thương bạn lắm, nên hứa rằng, mỗi ngày đều sẽ đến chơi với Gà Trống. Hai bạn lấy tín hiệu là tiếng gáy ò ó o. Hễ nghe tiếng gáy, dù đang làm gì, Mặt Trời cũng sẽ xuất hiện ngay. Còn Mặt Trăng, do quá ân hận về hành động của mình, không dám nói chuyện với hai bạn, nên đành chờ khi Mặt Trời và Gà Trống đi ngủ mới dám xuất hiện trên bầu trời. Và Gà Trống vừa ngủ dậy, cất tiếng gáy là Mặt Trăng lại trốn đi ngay.
Câu chuyện “Sự tích ngày và đêm”, không chỉ đưa ra cách giải thích thú vị về hiện tượng mặt trời mọc thì mặt trăng lặn. Mà còn dạy cho người đọc bài học ý nghĩa về tình bạn.
Mẫu số 8
Sọ Dừa là câu chuyện cổ tích đầu tiên em được đọc, và đó cũng là câu chuyện em yêu thích nhất.
Chuyện kể về một người đàn bà, vì uống nước trong cái gáo dừa, mà mang thai và sinh ra đứa con có ngoại hình xấu xí, kì lạ. Thế là bà đặt tên cho con là Sọ Dừa. Tuy vẻ ngoài xấu xí, đi lại bất tiện, nhưng Sọ Dừa vẫn rất chăm chỉ, chịu khó. Chàng đã nhờ mẹ xin cho được đi chăn bò của nhà phú ông. Đáp lại sự nghi ngờ của mọi người, chàng không chỉ trông được đàn bò, mà còn chăm chúng béo tốt. Trong thời gian ấy, con gái út của phú ông không ngại vẻ ngoài của Sọ Dừa, mà vẫn mang cơm đến cho chàng. Cảm động, chàng nhờ mẹ đến hỏi cưới cô. Ngày cưới, Sọ Dừa trở về hình dáng bình thường, khôi ngô tuấn tú, lại có nhà rộng, gia nhân tấp nập khiến ai cũng ngạc nhiên. Không chỉ thế, sau khi kết hôn, Sọ Dừa còn chăm chỉ dùi mài kinh sử, thi đỗ Trạng Nguyên. Điều đó khiến cho hai chị gái của vợ chàng hết sức ghen ghét.
Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị rủ cô em ra biển chơi, rồi đẩy cô xuống nước, hòng cướp đoạt vị trí vợ Trạng Nguyên. Nhưng may mắn, nhờ vào hòn đá lửa, con dao và mấy quả trứng gà Sọ Dừa dặn mang theo, mà cô em gái sống sót được. Cuối cùng, khổ tận cam lai, hai vợ chồng đoàn tụ được với nhau, sống hạnh phúc đến cuối đời. Còn hai cô chị xấu xa thì tủi hổ mà bỏ đi biệt xứ.
Qua câu chuyện Sọ Dừa, tác giả dân gian đã gửi gắm chúng ta bài học về cách đối nhân xử thế, không nên quan trọng vẻ bề ngoài, mà phải chú trọng đến phẩm chất. Một người có trái tim nhân hậu, tốt bụng, thông minh thì mới là người đáng quý.
Mẫu số 9
Ngày xửa ngày xưa, ở xã Nam Mẫu có tổ chức ngày hội cúng Phật rất đông người đến tham gia. Trong đó, xuất hiện một bà già xấu xí, bẩn thỉu, gớm ghiếc. Ai cũng sợ hãi và xa lánh bà ta.
Duy chỉ có hai mẹ con tốt bụng, tuy nghèo khó nhưng họ đã thương xót, đồng ý cho bà ăn uống và nghỉ ngơi lại nhà. Đêm hôm đó, người mẹ nhìn thấy chỗ bà già kia nằm ngủ phát ra ánh sáng thần kì. Nhìn kĩ, thì ở đó là một con Giao Long to lớn đang cuộn mình nằm ngủ. Sợ hãi, người mẹ không dám làm gì, đành nằm im ngủ tiếp.
Sáng hôm sau, bà lão rời đi. Trước khi đi, bà đưa cho hai mẹ con một túi tro dặn rắc quanh nhà và một mảnh trấu luôn mang theo mình. Bà bảo đó là phần thưởng cho tấm lòng thơm thảo của hai mẹ con. Còn những kẻ mang danh viếng Phật lại vô tâm ngoài kia sẽ phải chịu quả báo. Nói rồi hóa thành Giao Long bay đi.
Mấy hôm sau, từ dưới bàn thờ Phật dâng lên cột nước lớn, chẳng mấy chốc gây sạt lở, nhấn chìm hết toàn bộ vùng đất. Chỉ có ngôi nhà của hai mẹ con là còn nguyên. Thấy mọi người đau khổ trong biển nước, người mẹ thả miếng trấu được cho xuống dòng nước, thì nó đột nhiên biến thành chiếc thuyền lớn. Thế là hai mẹ con liền chèo thuyền đi cứu người.
Bây giờ biển nước ấy vẫn con, được đặt tên là hồ Ba Bể. Còn mỏm đất có ngôi nhà của hai mẹ con được gọi là Gò Bà Góa.
Mẫu số 10
Tôi đã được lắng nghe những câu chuyện cổ tích từ miệng kể của bà và mẹ từ nhỏ. Đến nay, tôi vẫn đặc biệt yêu thích và nhớ mãi về câu chuyện Tấm Cám.
Câu truyện xoay quanh hai chị em Tấm và Cám. Mất cha từ nhỏ, Tấm sống với mẹ kế và luôn phải làm lụng vất vả, từ việc nhà đến việc đồng.
Một ngày, mẹ kế đưa mỗi người một cái giỏ và sai họ đi bắt tôm cái, tép riu, hứa sẽ thưởng cho người bắt đủ giỏ một chiếc yếm đỏ.
- Ai bắt đầy giỏ trước sẽ nhận được chiếc yếm đỏ làm thưởng.
Do đã quen mò cua bắt ốc, Tấm nhanh chóng làm đầy giỏ với cá và tép. Trong khi đó, Cám còn bận chơi và đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám gọi Tấm và nói:
- Chị Tấm ơi, chị hãy lặn sâu thêm, kẻo đầu chị bẩn mẹ lại mắng.
Tấm tin lời, xuống ao tắm ở nơi sâu. Trong khi đó, Cám tranh thủ trút hết tép trong giỏ Tấm vào giỏ mình và vội vã về nhà để nhận chiếc yếm đào. Khi Tấm trở lên, phát hiện giỏ trống không, lo sợ bị dì ghẻ trừng phạt nên ngồi khóc. Lúc này, Bụt xuất hiện, khuyên Tấm kiểm tra lại giỏ và chỉ còn lại một con cá bống. Bụt bảo Tấm đem cá về nuôi và khi cho ăn phải gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Sau đó, Tấm thường giữ một phần cơm sau bữa ăn để cho cá. Cám thấy lạ, bèn mách mẹ. Họ rình xem Tấm đang làm gì thì phát hiện ra việc nuôi cá bống. Khi cá bống ngoi lên mặt nước mỗi khi nghe Tấm gọi, dì ghẻ đã âm mưu một kế khác.
- Con ơi, mai con phải dẫn trâu đi chăn thật xa, vì làng ta đã bắt đầu cấm chăn gần nhà, tránh để bị bắt trâu.
Tấm vô tư dẫn trâu ra xa theo lời dặn. Trong khi đó tại nhà, Cám và mẹ cô ta bắt chước lời gọi của Tấm. Khi cá bống hiện lên, họ lập tức bắt và giết nó.
Sau một thời gian, nhà vua tổ chức lễ hội liên tục vài ngày đêm. Người người từ già đến trẻ, nam nữ các làng đều hào hứng tham dự. Hai mẹ con Cám cũng chuẩn bị quần áo đẹp để đi hội. Thấy Tấm muốn đi, dì ghẻ đưa cho một thúng gạo và một thúng thóc, dặn dò:
- Con phải nhặt xong hết gạo thóc này mới được đi đâu. Nếu để lại nửa vời, không có gạo để nấu cơm, dì sẽ đánh đó.
Sau đó, nhà vua ra lệnh mời gọi mọi phụ nữ trong vương quốc thử vừa chiếc giày vàng. Ai đi vừa sẽ được làm hoàng hậu. Cám cũng thử nhưng không vừa. Khi nhận ra Tấm ở đâu đó gần đó, Cám liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, chắc chị Tấm cũng đang tới thử giày kìa!
Dì ghẻ nhếch môi, bảo:
- Người ta không ai đoái hoài đến cái chuông đồng nát, huống hồ là một cô gái như mảnh chĩnh vứt bên bờ tre.
Nhưng khi Tấm thử giày, chiếc giày vừa khít tuyệt đối. Nàng còn rút ra một chiếc giày giống hệt từ trong tay áo. Cuối cùng, Tấm được nhà vua mời vào cung và trở thành hoàng hậu.
Dù sống trong hoàng cung, Tấm không bao giờ quên ngày giỗ cha. Mụ dì ghẻ và Cám thừa cơ này để nghĩ kế hãm hại Tấm:
- Ngày xưa con đã từng leo cau, hôm nay con hãy trèo lên hái một buồng cau để cúng cha.
Tấm vâng lời, leo lên cây cau. Khi cảm nhận thấy cây cau bắt đầu rung lắc, nàng liền hỏi xuống:
- Dì đang làm gì ở dưới gốc vậy?
- Gốc cau toàn kiến, dì đang đuổi kiến cho con không bị đốt.
Trước khi Tấm kịp hái buồng cau, cây đổ sập, khiến Tấm ngã xuống ao và tử vong. Sau đó, dì ghẻ đưa Cám vào cung để thế chỗ Tấm.
Một ngày kia, khi Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, một con chim vàng anh bay đến, đậu trên cành cây và hót vang:
- Phơi áo chồng tao phơi đàng hoàng, đừng phơi bờ rào, kẻo rách áo chồng tao.
Sau đó, chim vàng anh bay vào cung và đậu ở cửa sổ, hót rất hay. Dù đi đâu, chim cũng theo sau. Vua rất yêu thích và quên cả ăn ngủ. Cám trở về mách với dì, và dì ghẻ bảo Cám bắt chim nấu thịt, rồi bịa chuyện dối vua. Khi vua vắng, Cám bắt vàng anh, nấu thịt và vứt lông ở vườn. Khi vua hỏi về chim, Cám trả lời:
- Thiếp thấy thèm thịt chim nên đã không giữ được mình, giết chim và đã ăn mất rồi.
Nhà vua không biết phải nói gì. Kỳ lạ thay, nơi vứt lông vàng anh mọc lên một cây xoan đào tươi tốt, lá rậm bóng mát. Vua yêu cầu treo võng dưới cây để nghỉ ngơi mỗi ngày. Cám tức giận, sai thợ đến chặt cây làm khung cửi. Khi vua hỏi, Cám lại nói dối:
- Cây bị bão làm đổ, thiếp đã sai người chặt để làm khung cửi dệt áo cho bệ hạ.
Khi khung cửi được hoàn thành, và Cám bắt đầu ngồi dệt, bỗng nghe thấy tiếng kêu từ khung cửi:
“Cót két cót két
Dùng gian của chị Tấm,
Chị sẽ không để yên”
Cám hoảng sợ, vội vàng chạy về kể lại cho mẹ nghe. Dì ghẻ bảo Cám đốt ngay cái khung cửi và mang tro đi xa hoàng cung để khỏi phiền phức.
Ở nơi đổ tro, một cây thị mọc lên, trên cây chỉ có một quả thị duy nhất. Một ngày, một bà lão đi ngang qua và bảo:
- Thị ơi thị, rơi vào bị thằng bà, thằng bà giữ bà thơm, bà chẳng thèm ăn.
Quả thị rơi vào bị thằng bà. Thằng bà vừa nói xong, quả thị liền rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, mỗi khi về, thằng bà luôn thấy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tươi ngon. Thằng bà quyết tâm rình xem có chuyện gì đang xảy ra thì phát hiện ra một cô gái bò ra từ quả thị. Thằng bà lặng lẽ lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Tấm ở với thằng bà, một hôm, vua đi qua, ghé vào thấy mảnh trầu têm cánh phượng giống của Tấm, liền hỏi thằng bà. Tấm và vua gặp lại nhau.
Kể đến Cám sau khi thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời, chỉ hỏi lại tôi:
- Em muốn đẹp không để chị giúp?
Cám tin tưởng và làm theo lời Tấm. Khi Tấm bảo người đào một hố sâu và sai Cám xuống, Cám không hề hoài nghi và đã chết khi xuống hố.
Câu chuyện Tấm Cám phản ánh khát khao công lý của nhân dân, nơi mà lòng tốt chiến thắng sự độc ác. Tấm, với tính cách hiền lành, cuối cùng đã sống hạnh phúc bên vua, trong khi mẹ con Cám gian ác lại nhận quả báo.
Mẫu số 11
Xưa kia, một vị vua muốn tìm người tài giỏi để giúp đỡ triều đình nên đã cử một viên quan đi tìm khắp nơi. Một hôm, viên quan này đến một làng và thấy hai cha con đang cày ruộng, liền tiến lại gần hỏi chuyện.
Viên quan hỏi người cha: “Này lão nông dân, con trâu của lão cày được mấy đường trong một ngày?”
Trước khi người cha kịp trả lời, cậu bé khoảng bảy tám tuổi đứng bên cạnh đã nhanh nhẹn hỏi lại viên quan: “Ông hãy nói cho tôi biết con ngựa của ông đi được mấy bước trong một ngày, tôi sẽ nói cho ông biết con trâu của cha tôi cày được mấy đường.”
Viên quan há hốc mồm không biết phải trả lời thế nào, trong lòng thầm mừng vì tìm được người tài. Ông liền hỏi tên tuổi, quê quán của hai cha con rồi phi ngựa đi thẳng.
Một ngày, vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, và đặt ra yêu cầu khó là làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy sinh ra chín con trong vòng một năm, nếu không làng sẽ phải chịu tội.
Cả làng rất lo lắng trước yêu cầu khó khăn này. Nghe được tin, cậu bé đề nghị với cha mình nói với dân làng là hãy giết hai con trâu và nấu hai thúng gạo nếp để ăn một bữa no nê. Phần còn lại, một con trâu và một thúng gạo nếp, sẽ bán để lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con cậu đi kinh thành giải quyết việc này.
Dân làng ban đầu không tin tưởng, bắt cha con cậu viết giấy cam đoan. Sau khi làm xong thủ tục, họ mới chịu giết trâu ăn thịt. Vài ngày sau, hai cha con lên đường vào kinh. Đến cửa hoàng cung, cậu bé bảo cha chờ ngoài còn mình thì lợi dụng lúc lính gác sơ hở để lẻn vào trong và bắt đầu khóc thật to ngay sân rồng.
Khi được triệu vào, cậu bé giả vờ nói với vua: “Tâu bệ hạ, mẹ con đã mất sớm, còn cha con thì không sinh thêm em bé để con có bạn chơi, nên con mới khóc. Con mong bệ hạ chỉ bảo cha con sinh thêm cho con có em.”
Nghe lời của cậu bé, vua cùng các quan trong triều không nhịn được cười. Vua nói: “Nếu muốn có em thì phải tìm vợ mới cho cha mày, cha mày là đực rồi, sao có thể đẻ được!”
Với vẻ mặt nghiêm túc, cậu bé lên tiếng với vua: “Vậy tại sao lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực để đẻ ra chín con trâu nộp cho đức vua? Con đực làm sao có thể sinh con được ạ!”
Vua cười nói: “Đó chỉ là một bài thử thôi! Chẳng lẽ làng chúng mày không biết đem trâu đó ra giết thịt mà ăn à?”
Cậu bé đáp lại rằng dân làng đã hiểu đó là ân sủng của vua, nên đã tổ chức ăn mừng. Nhà vua nghe vậy chỉ biết cười.
Một ngày, khi cậu và cha đang ăn cơm ở công quán, có sứ giả của vua mang đến một con chim sẻ và yêu cầu phải chế biến thành ba món ăn. Cậu liền đưa cho sứ giả một cây kim và bảo: “Mang kim này về tâu với vua và xin hãy rèn thành một con dao để tôi xẻ thịt chim này.” Sau sự việc đó, nhà vua đã gọi cha con cậu vào và ban cho phần thưởng lớn.
Vào thời đó, một quốc gia láng giềng có ý đồ xâm chiếm đất nước ta. Để kiểm tra xem nước ta có nhân tài không, họ gửi sứ giả mang theo một cái vỏ ốc dài, rỗng hai đầu, yêu cầu xâu một sợi chỉ qua đường ruột của ốc.
Các quan lại đau đầu không tìm ra cách giải quyết câu đố về cái vỏ ốc. Sau nhiều cố gắng bất thành, triều đình buộc phải kéo dài thời gian bằng cách mời sứ thần ở lại công quán.
Một ngày, trong lúc đang chơi đùa, cậu bé nhận được lệnh triệu tập từ vua. Nghe viên quan kể lại vụ việc, cậu liền nghĩ ra cách giải quyết và chỉ dẫn viên quan cách làm thông qua một bài hát nhỏ:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”
Viên quan vui mừng trở lại triều đình, áp dụng phương pháp do cậu bé chỉ dẫn. Sử dụng một con kiến càng, buộc chỉ vào lưng và dụ nó bằng mỡ qua ống ốc, sợi chỉ cuối cùng cũng xuyên qua được. Sứ thần từ quốc gia láng giềng khi nghe câu trả lời vô cùng ngạc nhiên và kính phục. Sau này, cậu bé thông minh được vua phong làm trạng nguyên và mời vào cung để tiếp tục học tập.