Đáp án đề thi học kì 2 Ngữ Văn 9 Kết nối tri thức, cánh diều, chân trời sáng tạo có đáp án cho toàn bộ chương trình học kì 1 giúp học sinh luyện thi hiệu quả.
Mục lục [Ẩn]
1. Đề thi Học kì 2 Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo
I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây:
MỘT VỤ TRẢ THÙ
(Tóm tắt: Ông Xuân Quý là một cảnh sát về hưu, trên chuyến tàu đi thăm bạn cũ tình cờ ông gặp lại ba người đã từng bị ông bắt giữ và phải ngồi tù khi ông còn công tác: Văn Hùng - vốn làm giám đốc một công ty, hiện làm nhân viên kĩ thuật trên tàu; Hạnh Xuân - một phụ nữ trước đây chuyên trộm cắp; Hùng Thuận - một tay xã hội đen. Khi tàu đi qua đường hầm, ở một khúc cua, ông Xuân Quý bị đánh bất ngờ từ phía sau băng chiếc mỏ lết của nhân viên kĩ thuật trên tàu, gục ngã trên vũng máu trong nhà vệ sinh. Thế Anh - một cảnh sát điều tra nổi tiếng tình cờ cũng có mặt trên tàu và ra tay phá án trong khi chờ cảnh sát địa phương đến ...)
[ ... ] Thế Anh nhìn thấy một vết xước ở cổ tay phải của Văn Hùng, liền hỏi:
- Tại sao ông có vết xước này?
- Lúc nãy tôi có vào phòng vệ sinh, do đã uống một chút rượu, tôi trượt chân ngã nên có vết xước này.
Thế Anh gật đầu, quay sang hỏi Hùng Thuận:
- Còn anh, anh đã ở đâu?
- Tôi ở trong toa viết thư cho bạn gái. - Hùng Thuận trả lời và chìa ra một bức thư viết dở, với các dòng chữ ngay ngắn. Liếc qua lá thư, Thế Anh gật đầu. Anh lại quay sang hỏi Hạnh Xuân:
- Còn cô, cô đã ở đâu vậy?
- Tôi cũng ở trong toa của mình suốt thời gian đó - Hạnh Xuân khai - Tôi đang ngồi sơn móng tay.
Hạnh Xuân nói xong, bối rối thọc tay vào túi áo, Thế Anh kịp nhận thấy có một vết ướt ở váy của cô ta. Giữa vết ướt là một vệt màu đỏ còn chưa sạch sau khi được xả nước và gột rửa vội vàng.
- Tôi đã biết ai là hung thủ, đó là một trong ba người này!
Chậm rãi và nghiêm túc, anh nói tiếp:
- Vết thương ở cổ tay Văn Hùng đúng như ông ta đã khai, trong nhà vệ sinh tôi thấy một vết trượt, chính là chỗ ông Xuân Quý nằm lên. Như vậy, ông Văn Hùng đã vào nhà vệ sinh trước đó. Hơn nữa, hộp đồ nghề của ông ấy đúng là để ở cuối toa tàu, ai cũng có thể lấy đi dụng cụ. Ông ấy không phải thủ phạm.
Dừng một giây, anh nói tiếp:
- Cô Hạnh Xuân đang sơn móng tay, theo tôi nhận thấy, khi tàu đi vào vòng cung eo biển và qua hầm, do độ nghiêng của tàu và bóng tối, cô ấy đã sơn lệch làm móng bị loang, và còn bị rớt sơn lên váy, cô ấy vội đi rửa nhưng chưa sạch, vì móng sơn bị loang lổ nên cô ấy đã xấu hổ phải giấu tay mình đi.
[ ... ] Thế Anh đanh giọng:
- Đây mới chính là hung thủ thực sự, không ai ngồi trên tàu lúc đi qua eo biển bị nghiêng và khi tàu đi qua hầm đường bộ với ánh sáng le lói lại có thể viết thư với những dòng chữ ngay ngắn cả. Đó là một lá thư đã có từ trước đó được mang ra bằng chứng ngoại phạm mà thôi.
Hùng Thuận biến sắc, vội vọt ra cửa để chạy trốn, rất nhanh, công an đã kip
khống chế, tra còng số 8 vào tay hắn. Trước khi bị giải đi, hắn còn lẩm bẩm:
- Lão già đáng chết! Chính vì lão mà tao đã phải bóc lịch suốt 5 năm! [ ... ]
(Theo Nguyễn Quốc Khánh - Kiều Bắc - Nguyễn Thị Hoa, Hướng dẫn Viết nói nghe các dạng làm văn 9, NXB ĐHQG Hà Nội, 2024)
Câu 1 (0,5 điểm) Bối cảnh vụ án xảy ra ở đâu? Kẻ gây án đã tấn công ông Xuân Quý vào thời gian nào?
Câu 2 (0,5 điểm) Nhân vật chính trong câu chuyện là ai? Vì sao cả 3 nhân vật Văn Hùng, Hạnh Xuân, Hùng Thuận đều là nghi phạm của vụ án?
Câu 3 (1,0 điểm) Chi tiết nào không được điều tra viên Thế Anh để ý khi phá án? Khả năng đặc biệt của Thế Anh khi điều tra và phá án là gì?
Câu 4 (1,0 điểm) Cảm nhận của em về nhân vật Thế Anh trong câu chuyện (viết 5-7 câu)
Câu 5 (1,0 điểm) Em rút ra được abif học gì từ câu chuyện trên?
II. Viết (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ sau:
Trong hầm Điện Biên
Một vỏ đạn cắm mấy cành hoa,
Một bức tranh tre làng rợp bóng,
Một bi đông đựng đầy nước nóng,
Một ván cờ bỏ dở năm im,
Một cái ca xòe cánh đôi chim,
Một phong thư chữ em nắn nót,
Một tia nắng ghé vào trong suốt.
Vạn trái bom không phá nổi
bình yên!
(Phác Văn, Điện Biên 5/1954
* Chú thích:
Phác Văn (1932 - 1996) tên thật là Nguyễn Văn Phác, quê xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, Hà Nội, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông nguyên là phóng viên báo Quân đội nhân dân, biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội, trợ lý văn hóa Cục Tư tưởng - Văn hóa thuộc Tổng cục Chính trị. Bài thơ Trong hầm Điện Biên được tác giả sáng tác trong thời gian tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Câu 2 (4,0 điểm) Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần |
Câu |
Nội dung |
Điểm |
Đọc hiểu |
1 |
- Bối cảnh vụ án: Trên một chuyến tàu hỏa. - Kẻ gây án đã tấn công ông Xuân Quý khi tàu qua hầm và ông Xuân Quý vào nhà vệ sinh. |
0,5 điểm |
2 |
- Nhân vật chính trong câu chuyện: Điều tra viên Thế Anh. - Vì sao cả 3 nhân vật đều có động cơ gây án. |
0,5 điểm |
|
3 |
- Chi tiết không được điều tra viên Thế Anh để ý khi phá án: Chiếc còng số 8 trên tay của Hùng Thuận. - Khả năng đặc biệt của Thế Anh khi điều tra và phá án: Quan sát cẩn thận, tỉ mỉ. Suy luận phán đoán sắc bén. |
1,0 điểm |
|
4 |
Cảm nhận của em về nhân vật Thế Anh: + Là một điều tra viên dày dạn kinh nghiệm. + Đam mê công việc, có trách nhiệm với cộng đồng. + Quan sát tỉ mỉ, cẩn thận; phán đoán sắc bén. + … |
1,0 điểm |
|
5 |
Bài học: + Cần rèn luyện khả năng suy luận và phán đoán. + Xem xét cẩn thận, thấu đáo chi tiết, sự việc dù là nhỏ nhất. + Kiên nhẫn tìm cách giải quyết khi gặp vấn đề nan giải. + … |
1,0 điểm |
|
Viết |
1 |
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Trong hầm Điện Biên của Phác Văn. |
2,0 điểm |
* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận. |
0,25 điểm |
||
Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục. Sau đây là một hướng gợi ý: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm. - Cảm nhận nội dung, nghệ thuật bài thơ. + Luận điểm 1: Bài thơ đã phát hiện những vẻ đẹp giản dị, rất đời thường của người lính kháng chiến giữa hiện thực chiến tranh khốc liệt. + Luận điểm 2: bài thơ là lời khẳng định đanh thép về sự sống bất diệt, bình yên trường tồn. + Luận điểm 3: Đặc sắc nghệ thuật. - Khẳng định sức sống, yế nghãi bài thơ. |
1,5 điểm |
||
Có sự sáng tạo trong cách viết |
0,25 điểm |
||
2 |
Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
4,0 điểm |
|
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn - Học sinh biết tạo lập một văn bản nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. |
0,25 điểm |
||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
0,25 điểm |
||
c. Triển khai vấn đề - Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng. - HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: 1. Mở bài: - Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là từ sự cho đi. - Nêu nhận định chung về giá trị của sự cho đi trong cuộc sống 2. Thân bài: a) Giải thích khái niệm cho đi: - Cho đi là hành động chia sẻ vật chất, tinh thần, kiến thức hoặc tình cảm với người khác mà không mong nhận lại điều gì. - Đó có thể là sự giúp đỡ về tài chính, thời gian, sự quan tâm hay lòng trắc ẩn. b) Ý nghĩa của sự cho đi: - Với người nhận: Nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ, tạo điều kiện vượt qua khó khăn hoặc cải thiện cuộc sống. - Với người cho: Cho đi mang lại niềm vui, hạnh phúc và cảm giác ý nghĩa trong cuộc sống. Hành động này giúp họ rèn luyện lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và nhân ái. - Với xã hội: Khi mọi người biết chia sẻ và cho đi, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, nhân văn hơn. Những giá trị như tình yêu thương, sự gắn kết sẽ được lan tỏa, xây dựng một cộng đồng phát triển bền vững và văn minh. c) Lợi ích từ việc cho đi: - Cho đi giúp tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp, gắn kết tình cảm giữa con người với nhau. - Cho đi làm giảm bớt những khoảng cách xã hội, xoa dịu nỗi đau, đem lại niềm tin cho những người khó khăn. - Khi cho đi, bản thân cũng cảm nhận được sự bình yên trong tâm hồn, làm phong phú đời sống tinh thần. d) Phê phán lối sống ích kỷ, chỉ biết nhận lại: - Những người chỉ biết sống cho bản thân, chỉ nhận mà không biết cho đi thường rơi vào trạng thái cô đơn, thiếu kết nối với mọi người xung quanh. - Lối sống ích kỷ làm suy giảm các giá trị đạo đức, gây ra sự chia rẽ, mâu thuẫn trong xã hội. e) Minh họa qua các ví dụ thực tế: - Các cá nhân, tổ chức từ thiện đóng góp tài sản, thời gian để giúp đỡ những người khó khăn. - Những người trẻ tham gia các hoạt động tình nguyện, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. - Tình huống người giàu cho đi không chỉ là tiền bạc mà còn là cơ hội, việc làm, giúp người khác vươn lên. 3. Kết bài: - Khẳng định lại giá trị của sự cho đi: Không chỉ là sự giúp đỡ mà còn là cách để tìm thấy hạnh phúc đích thực. - Kêu gọi mỗi người hãy biết cho đi nhiều hơn để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. |
3,0 điểm |
||
d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. |
0,25 điểm |
||
e. Sáng tạo - Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo - Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu. |
0,25 điểm |
2. Đề thi Học kì 2 Ngữ văn 9 Cánh diều
I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
VỤ TRỘM KHO BÁNH
- Hin-tơ, tới trụ sở liền được không? Oa-lây-ết nói qua điện thoại. - Tôi biết đang là tối thứ bảy và ông thích ở với vợ con. Nhưng tôi đang gặp một chuyện nát óc mà chắc giỏi suy luận như ông cũng chưa chắc giải nổi. - Ông thanh tra rên rỉ.
- Được rồi, nếu chuyện không quan trọng thì ông đâu có kêu. Tôi tới liền. Nếu hên thì mình sẽ giải quyết xong kịp giờ cho tôi về với món rô-ti của bà xã trong lò. – Tay bác sĩ đáp.
Oa-lây-ết đón Hin-tơ ngay cổng đồn cảnh sát và dẫn ông ta vào phòng thẩm vấn, nơi Hen-ry Oắt-man đang ngồi bồn chồn bẻ đốt ngón tay.
- Ông có nghe vụ trộm kho bánh tối qua không? - Oa-lây-ết hỏi. - Có đứa đột nhập và chở đi toàn bộ kho trứng để làm nhân bánh. Ông Oắt-man đây là bảo vệ nhà kho, giữ ca trực đêm qua. Tôi vừa lấy lời khai của ông ta xong.
- Như ông thanh tra vừa nói, Oắt-man lên tiếng, nhà kho bị đột nhập ngay ca trực của tôi tối qua. Tôi không hay biết gì vì lúc đó tôi bỏ đi uống cà phê, nhưng
khi từ quán cà phê trở về, tôi thấy một trong những tay đã làm vụ này. Đó là Giôn Ô-hen-ry, thẳng đó vừa bị đuổi việc mấy bữa trước. Tôi thấy nó đang chuồn đi với mấy cái thùng. Trăng tròn nên tôi thấy rõ lắm. Nó còn có một đồng bọn nữa, nhưng thằng đó quay lưng về phía ánh trăng nên tôi không nhìn rõ mặt. Tôi nghi thằng Ô-hen-ry muốn trả thù vì bị đuổi việc. Cũng may, Trung thu là chủ nhật vừa rồi, nếu không là có biết bao nhiêu tiệm bánh khiếu nại vì không có bánh bán.
- Chuyện rắc rối là ở chỗ - Oa-lây-ết nói sau khi ông bảo vệ được cho về - cái gã Ô-hen-ry đó lại có bằng chứng ngoại phạm. Chiều nay tôi mới thẩm vấn nó. Nó khai cả buổi tối ở nhà với vợ coi phim Titanic. Con vợ làm chứng cho nó. Thằng cha chủ tiệm cho thuê băng đĩa cũng xác nhận có cho nó thuê đĩa phim đó.
- Ông suy ra được cái gì không?
- Tôi suy ra là tôi thừa sức về nhà để kịp ăn món rô-ti với vợ tôi. - Hin-tơ nói, ông khỏi phải ưu tư về tay Ô-hen-ry nữa. Cứ hỏi lại cha Oắt-man xem cha làm gì lúc bỏ vị trí nhiệm sở đi uống cà phê. Nếu Trung thu đã qua vào tuần trước thì làm sao còn trăng tròn cho tay bảo vệ nhìn rõ mặt Ô-hen-ry?
(Jack Christone, Tuyển tập truyện hình sự, Nhà xuất bản văn học)
Câu 1 (0,5 điểm) Đâu là lí do viên thanh tra mời bác Hin-tơ phá án? Và đâu là sai lầm của viên thanh tra khiến vụ án đi vào bế tắc?
Câu 2 (0,5 điểm) Xác định chi tiết mấu chốt trong lời khai của Hen-ry Oắt-man để bác sĩ Hin-tơ phá án thành công?
Câu 3 (1,0 điểm) Tài năng phá án của bác sĩ Hin-tơ được thể hiện như thế nào trong câu chuyện?
Câu 4 (1,0 điểm) Nêu ít nhất 2 điểm khác biệt trong truyện trên so với các truyện trinh thám khác em thường đọc.
Câu 5 (1,0 điểm) Em rút ra được bài học gì từ câu chuyện trên?
II. Viết (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ sau:
Vùng phấn bay
Hình như ... thầy chẳng khác xưa
Ba lăm năm trước ... thầy đưa qua đò
Dòng sông kiến thức sóng xô
Mỏng manh trang vở học trò trắng tinh
Em cầm cây bút đời mình
Thầy cầm phấn trắng chắp tình quê hương
Đất trời trang trải mấy phương
Nắng, mưa, sương, gió ... biết thương đời thầy
Sông bao nhiêu nước ... sông gầy
Cánh đồng gieo chữ ... đợi ngày hoa non
Bao nhiêu viên phấn đã mòn
Bao nhiêu giáo án chẳng còn trẻ trung
Nước trôi về nẻo vô cùng
Thương thầy ở lại một vùng phấn bay.
Trang trời xanh thẳm hôm nay
Phấn xưa đã kết thành mây trắng đầu
Sông đời bất chợt nông, sâu
Nhớ thầy em bắc chiếc cầu chữ Tâm.
(Phi Tuyết Ba)
* Chú thích:
Nhà thơ Phi Tuyết Ba sinh năm 1946 tại Quảng Bình, còn có bút danh khác là Nhật Lệ, Phước An. Bà là nhà giáo, nhà thơ có đề tài sáng tác phong phú, trong đó có nhiều sáng tác về đồng nghiệp, học trò. Thơ Phi Tuyết Ba đa phần đậm tính triết lý, giàu liên tưởng và có sức khái quát cao. Phi Tuyết Ba là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Câu 2 (4,0 điểm) Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần |
Câu |
Nội dung |
Điểm |
Đọc hiểu |
1 |
- Lí do viên thanh tra mời bác Hin-tơ phá án: Vì bác sĩ Hin-tơ là người giỏi suy luận. - Sai lầm của viên thanh tra khiến vụ án đi vào bế tắc: Đã bỏ sót nghi phạm của vụ án. |
0,5 điểm |
2 |
Chi tiết mấu chốt trong lời khai của Hen-ry Oắt-man để bác sĩ Hin-tơ phá án thành công: Hen-ry Oắt-man đã khai thấy rõ mặt kẻ trộm kho bánh dưới ánh trăng tròn. |
0,5 điểm |
|
3 |
Tài năng phá án của bác sĩ Hin-tơ được thể hiện: Phá án dựa trên mâu thuẫn trong lời khai của người báo án. |
1,0 điểm |
|
4 |
Nêu ít nhất 2 điểm khác biệt trong truyện trên so với các truyện trinh thám khác em thường đọc: + Việc phá án không được tiến hành ở hiện trường vụ án. + Có nhân vật thanh tra - người phá án nhưng việc phá án lại thực hiện bởi 1 nhân vật khác. + Phá án chỉ dựa vào 1 chi tiết trong lời khai của kẻ gây án. + … |
1,0 điểm |
|
5 |
Bài học: + Cần phải rèn luyện khả năng quan sát và suy luận. + Xem xét thấu đáo sự việc, chi tiết dù là nhỏ nhất. + Khi gặp vấn đề nan giải cần kiên nhẫn tìm cách giải quyết. + … |
1,0 điểm |
|
Viết |
1 |
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Vùng phấn bay của Phi Tuyết Ba. |
2,0 điểm |
* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận. |
0,25 điểm |
||
Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục. Sau đây là một hướng gợi ý: - Giới thiệu tác giả tác phẩm. - Cảm nghĩ về nội dung, nghệ thuật của bài thơ: + Luận điểm 1: Nỗi xúc động trào dâng của nhà thơ khi về thăm thầy cũ. + Luận điểm 2: Tình thương yêu, quý trọng dành cho thầy và lời tự hứa của nhà thơ luôn khắc ghi lời thầy đã dạy. + Luận điểm 3: Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. - Đánh giá chung và khẳng định giá trị bài thơ. |
1,5 điểm |
||
Có sự sáng tạo trong cách viết. |
0,25 điểm |
||
2 |
Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
4,0 điểm |
|
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn - Học sinh biết tạo lập một văn bản nghị luận đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. |
0, 25 điểm |
||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
0,25 điểm |
||
c. Triển khai vấn đề - Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng. - HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: 1. Mở bài: - Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là từ sự cho đi. - Nêu nhận định chung về giá trị của sự cho đi trong cuộc sống 2. Thân bài: a) Giải thích khái niệm cho đi: - Cho đi là hành động chia sẻ vật chất, tinh thần, kiến thức hoặc tình cảm với người khác mà không mong nhận lại điều gì. - Đó có thể là sự giúp đỡ về tài chính, thời gian, sự quan tâm hay lòng trắc ẩn. b) Ý nghĩa của sự cho đi: - Với người nhận: Nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ, tạo điều kiện vượt qua khó khăn hoặc cải thiện cuộc sống. - Với người cho: Cho đi mang lại niềm vui, hạnh phúc và cảm giác ý nghĩa trong cuộc sống. Hành động này giúp họ rèn luyện lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và nhân ái. - Với xã hội: Khi mọi người biết chia sẻ và cho đi, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, nhân văn hơn. Những giá trị như tình yêu thương, sự gắn kết sẽ được lan tỏa, xây dựng một cộng đồng phát triển bền vững và văn minh. c) Lợi ích từ việc cho đi: - Cho đi giúp tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp, gắn kết tình cảm giữa con người với nhau. - Cho đi làm giảm bớt những khoảng cách xã hội, xoa dịu nỗi đau, đem lại niềm tin cho những người khó khăn. - Khi cho đi, bản thân cũng cảm nhận được sự bình yên trong tâm hồn, làm phong phú đời sống tinh thần. d) Phê phán lối sống ích kỷ, chỉ biết nhận lại: - Những người chỉ biết sống cho bản thân, chỉ nhận mà không biết cho đi thường rơi vào trạng thái cô đơn, thiếu kết nối với mọi người xung quanh. - Lối sống ích kỷ làm suy giảm các giá trị đạo đức, gây ra sự chia rẽ, mâu thuẫn trong xã hội. e) Minh họa qua các ví dụ thực tế: - Các cá nhân, tổ chức từ thiện đóng góp tài sản, thời gian để giúp đỡ những người khó khăn. - Những người trẻ tham gia các hoạt động tình nguyện, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. - Tình huống người giàu cho đi không chỉ là tiền bạc mà còn là cơ hội, việc làm, giúp người khác vươn lên. 3. Kết bài: - Khẳng định lại giá trị của sự cho đi: Không chỉ là sự giúp đỡ mà còn là cách để tìm thấy hạnh phúc đích thực. - Kêu gọi mỗi người hãy biết cho đi nhiều hơn để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. |
3,0 điểm |
||
d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt |
0,25 điểm |
||
e. Sáng tạo - Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng. - Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu. |
0,25 điểm |
3. Đề thi Học kì 2 Ngữ văn 9 Kết nối tri thức
I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
BÍ MẬT LÂU ĐÀI CỔ SHOSCOMBE
(Lược trích một phần: Một hôm, Mason, một huấn luyện viên ngựa ở công viên Shoscombe đến tìm Holmes nhờ giúp đỡ. Chủ của ông là Robert, người có đam mê đua ngựa, sống nhờ trong lâu đài cổ Shoscombe của người chị gái - phu nhân Phalder. Phu nhân rất thương em trai, ngày ngày khi đi dạo, phu nhân sẽ ghé để thăm ngựa và động viên em. Robert đặt cược tất cả gia tài vào con Hoàng tử, thậm chí cắm cả lâu đài Shoscombe cho các chủ nợ Do Thái. Khoảng 1 tuần nay phu nhân không ghé thăm chuồng ngựa dù thỉnh thoảng bà vẫn đi dạo trên xe ngựa, Robert cáu gắt dẫn con chó giống quý hiếm của chị tới cho lão Barnes, chủ quán ăn “Con Rồng Xanh” . Đêm đêm lão còn xuống hầm mộ gần lâu đài hàng tiếng đồng hồ. Qua theo dõi, Mason còn thấy trong hầm mộ có bộ xương khô. Holmes và cộng sự đã tới Shoscombe, trọ và tìm cách tiếp cận lão Barnes)
Sau khi ông chủ quán rời chúng tôi, Holmes nói với tôi:
- Trong tay chúng ta chỉ có vài lá bài, Watson à. Ván bài này không phải dễ chơi đâu. Nhưng trong một hai ngày, chúng ta có thể tìm ra đầu mối. Tôi tin rằng ngài Robert vẫn còn ở Luân Đôn. Tôi đề nghị tối nay chúng ta chui vào vùng cấm địa. Có vài chi tiết tôi muốn rà soát lại.
- Anh có giả thiết rồi à?
- Sơ sơ như vầy, Watson à. Một chuyện đã xảy ra cách đây khoảng tám ngày, làm xáo trộn sinh hoạt tại lâu đài Shoscombe. Chuyện gì à? Này, hãy xét lại người em chấm dứt việc thăm viếng người chị tật nguyền, ông ấy tống khứ con chó mà bà chị cưng. Con chó thuộc quyền sở hữu của bà ấy, Watson! Anh có thấy gì lạ không?
- Thù vặt thôi?
- Có thể. Hoặc là... ờ... tôi lại thấy... Ta hãy nghiên cứu lại tình hình. Từ lúc cãi lộn cứ tạm cho là có đi, mệnh phụ đổi thói quen, ở mãi trong phòng, có ra đi thì không ghé thăm chuồng ngựa nữa, rõ ràng nhất là đâm ra uống rượu. Nào, khớp nhau trăm phần trăm chưa.
- Còn chuyện ở nhà mồ...
- À còn cái nhà mồ dưới đất! Giả thiết rằng... đó là giả thiết động trời rằng... Ngài Robert thanh toán chị ruột mình?
- Chuyện gì động trời vậy?
- Đành rằng, ngài thuộc thế gia vọng tộc. Nhưng trong một đàn cừu, biết đâu lại chẳng có một con chiên ghẻ... Anh có ý kiến gì, Watson?
- Một khi mà anh chọn giả thiết kinh khiếp như vậy thì chuyện gì lại không được? - Tôi định làm một thí nghiệm nhỏ vào ngày mai, Watson à.
Khoảng một hai giờ, chúng tôi đi dạo một vòng và anh xin được chủ quán cho dẫn theo con chó tinh khôn.
- Đây là vùng tử địa - Holmes nói. Khi chúng tôi tới trước cái cổng hai lớp song sắt có gắn huy hiệu của một dòng họ quý tộc.- Ông Barnes có cho biết, khoảng 12 giờ, bà mệnh phụ sẽ dùng ngựa đi dạo, và khi tới cổng, xe phải chạy chậm để chờ mở cổng. Xe chạy chậm lại, ngựa đi từng bước. Nhờ đó tôi có thể quan sát kỹ người trên xe. Một thiếu phụ trẻ, thân hình đều đặn, tóc vàng, ngồi bên trái. Bên phải là một bà lão, khăn choàng che khuất mặt và tai. Chắc chắn là một bà lão tật nguyền. Khi xe ra đường cái tôi ra hiệu lệnh. Xà ích ngừng xe lại. Tôi hỏi thăm ngài Robert.
Cùng lúc đó, Holmes rời nơi ẩn nấp, thả con chó trung thành ra. Con vật vui mừng, sủa vang, leo lên xe. Trong nháy mắt, nguồn vui cuống cuồng của nó biến thành sự thịnh nộ đằng đằng sát khí, nó muốn xẻ tà áo bà lão.
- Cho chạy, cho chạy - Một giọng cứng cỏi ra lệnh.
Ngựa ăn roi, chiếc xe phóng đi nhanh. Hai chúng tôi còn lại trên lộ.
- Thấy chưa Watson, kế sách của ta tốt đẹp - Holmes nói lớn và cột con chó lại - Nó lầm tưởng là chủ nó, nhưng nó phát hiện người nào khác.
Chó chưa khi nào lầm.
- Tiếng ra lệnh cho xe chạy là tiếng đàn ông - Tôi nói lớn. Ta có thêm một lá bài mạnh trong tay. Nhưng còn phải đổ mồ hôi nữa.
- Đúng thế.
(Lược phần cuối: Holmes và Watson được Ma-sơn bí mật đưa xuống hầm mộ. Holmes phát hiện trong 1 hòm cổ có xác một người mới mất. Vừa lúc đó, Robert đi xuống, biết mọi chuyện đã bại lộ, hắn đành kể hết cho Holmes nghe về cái chết của người chị, hắn không giết bà mà chỉ là giấu nhẹm cái chết của bà vì sợ bọn chủ nợ đến đòi và tịch thu con Hoàng tử. Lão có nhân chứng là hai vợ chồng người nữ hầu của bà chị. Hôm bàn giao vụ việc cho cảnh sát, cuối cùng, Robert thắng giải đua, trả hết nợ nần, lo tang lễ chu đáo cho người chị).
(Theo A-thơ Cô-nan Đoi-lơ, Thám tử Sherlock Holmes, Toàn tập, Tập 2, NXB Hồng Đức, 2019, tr 564-581)
Câu 1 (0,5 điểm) Dựa vào phần lược trích ở đầu văn bản Bí mật lâu đài cổ Shoscombe, hãy xác định địa điểm xảy ra vụ án.
Câu 2 (0,5 điểm) Đặc điểm hệ thống nhân vật của thể loại truyện trinh thám được thể hiện như thế nào trong văn bản Bí mật lâu đài cổ shoscombe?
Câu 3 (1,0 điểm) Trong văn bản, dựa vào đâu mà Holmes phán đoán người đi dạo hàng ngày trên xe ngựa không phải là phu nhân Phalder? Bằng cách nào Holmes đã phát hiện ra chân tướng sự việc? Qua đó, em thấy được những năng lực nào của Holmes?
Câu 4 (1,0 điểm) Em hiểu câu nói: Nhưng trong một đàn cừu, biết đâu lại chẳng có một con chiên ghẻ như thế nào?
Câu 5 (1,0 điểm) Trong cuộc sống, đôi khi có những sự thật bị che giấu, để tìm ra sự thật, chúng ta cần có những phẩm chất gì?
II. Viết (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ sau:
MẸ ƠI
Thềm rêu thầm giữ dấu chân
Vách thầm giữ bóng
Chăn thầm giữ hơi
Chiều, con mắt lệ đầy vơi
Giọt dài giọt vắn
Mẹ ơi, khóc thầm
Xưa hai đôi đũa một mâm
Giờ hai đôi đũa... con cầm một đôi
Còn một đôi đũa mồ côi
Nghẹn ngào con nuốt cho trôi chén buồn
(Theo Nguyễn Ngọc Hưng, 65 bài thơ hay dành cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 2022, tr.51)
Câu 2 (4,0 điểm) Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần |
Câu |
Nội dung |
Điểm |
Đọc hiểu |
1 |
Vụ án xảy ra ở: lâu đài cổ Shoscombe, gần công viên Shoscombe. |
0,5 điểm |
2 |
Đặc điểm hệ thống nhân vật của thể loại truyện trinh thám: - Có các nhân vật đặc trưng của truyện trinh thám: thám tử Holmes, người báo án là Mason, nghi phạm là Robert. - Trong đó, nhân vật chính là thám tử Sherlock Holmes. |
0,5 điểm |
|
3 |
- Holmes phán đoán dựa vào các chi tiết sau trong lời kể của Mason: + Người em chấm dứt việc thăm viếng người chị tật nguyền, ông ấy tống khứ con chó mà bà chị cưng. Con chó thuộc quyền sở hữu của bà ấy. + Mệnh phụ đổi thói quen, ở mãi trong phòng, có ra đi thì không ghé thăm chuồng ngựa nữa, đâm ra uống rượu. - Để phát hiện ra chân tướng sự việc, Holmes đã dùng cách sau: Holmes mượn con chó của lâu đài chặn xe ngựa chở phu nhân đi dạo và kiểm chứng người ngồi trong xe không phải chủ nhân của nó. Kẻ giả danh phu nhân đã phải lên tiếng để ra lệnh cho xe chạy. - Qua đó, em thấy được những năng lực của Holmes: Là người có óc phán đoán, suy luận rất lo-gíc; Là người rất thông minh. |
1,0 điểm |
|
4 |
Câu nói Nhưng trong một đàn cừu, biết đâu lại chẳng có một con chiên ghẻ được hiểu là: - Đây là câu nói của Holmes với người cộng sự khi nhắc đến Robert - nghi can trong vụ việc ông đang giải quyết. + Robert dù thuộc dòng dõi quý tộc cao quý, nhưng vẫn có thể chính là kẻ dám làm ra những chuyện xấu xa. + Qua đó thể hiện sự phán đoán tinh nhạy, sự suy luận rất lo-gíc và mắt nhìn người đầy kinh nghiệm của Holmes. |
1,0 điểm |
|
5 |
Trong cuộc sống, đôi khi có những sự thật bị che giấu, để tìm ra sự thật, chúng ta cần có những phẩm chất: - Có lòng trung thực, tôn trọng sự thật và khao khát tìm kiếm sự thật; - Có lòng dũng cảm, dám đối mặt với thử thách khó khăn để tìm ra sự thật; đối diện với sự thật. - Không vì vật chất, tình cảm hay sự đe doạ mà che giấu sự thật, bao biện sự dối trá. - Biết nhờ đến sự giúp đỡ của mọi người xung quanh, thậm chí là cảnh sát. - Cần có óc phán đoán, suy luận lo-gíc, có căn cứ... |
1,0 điểm |
|
Viết |
1 |
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Mẹ ơi! của Nguyễn Ngọc Hưng. |
2,0 điểm |
* Yêu cầu về hình thức, kĩ năng: Đảm bảo đoạn văn nghị luận có bố cục mạch lạc, sử dụng linh hoạt các kiểu câu và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu, các ý trong đoạn văn. Có cách diễn đạt trong sáng độc đáo, thể hiện những suy nghĩ, kiến giải mới mẻ về vấn đề nghị luận. |
0,25 điểm |
||
Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần giới thiệu được vấn đề cần bàn luận, nêu rõ lí do và quan điểm của bản thân, hệ thống luận điểm chặt chẽ, lập luận thuyết phục, sử dụng dẫn chứng thuyết phục. Sau đây là một hướng gợi ý: - Hình ảnh người mẹ: Mẹ được khắc họa qua những nét giản dị, tần tảo, luôn hy sinh vì con cái, thể hiện tình yêu thương vô bờ bến. - Tâm trạng người con: Qua những lời thơ, người con bày tỏ sự yêu thương, biết ơn và hối tiếc khi nhận ra công lao thầm lặng của mẹ. Cảm xúc của người con trong bài thơ rất chân thật và sâu sắc. - Nghệ thuật: Nguyễn Ngọc Hưng sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng đầy cảm xúc, giúp người đọc dễ dàng đồng cảm. Những hình ảnh thơ quen thuộc, gợi nhớ về cuộc sống đời thường của mẹ con. Nhịp thơ nhẹ nhàng, chậm rãi như một lời tâm sự, tri ân của người con với mẹ. |
1,5 điểm |
||
Có sự sáng tạo trong cách viết. |
0,25 điểm |
||
2 |
Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
4,0 điểm |
|
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn - Học sinh biết tạo lập văn bản đảm bảo đủ cấu trúc 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. |
0,25 điểm |
||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là sự cho đi. Viết bài văn nghị luận về sự cho đi trong cuộc sống hôm nay. |
0,25 điểm |
||
c. Triển khai vấn đề - Chia vấn đề nghị luận thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, có sức thuyết phục; sử dụng tốt các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng. - HS có thể triển khai theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: 1. Mở bài: - Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hạnh phúc không đến từ việc nhận lại mà là từ sự cho đi. - Nêu nhận định chung về giá trị của sự cho đi trong cuộc sống. 2. Thân bài: a) Giải thích khái niệm cho đi: - Cho đi là hành động chia sẻ vật chất, tinh thần, kiến thức hoặc tình cảm với người khác mà không mong nhận lại điều gì. - Đó có thể là sự giúp đỡ về tài chính, thời gian, sự quan tâm hay lòng trắc ẩn. b) Ý nghĩa của sự cho đi: - Với người nhận: Nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ, tạo điều kiện vượt qua khó khăn hoặc cải thiện cuộc sống. - Với người cho: Cho đi mang lại niềm vui, hạnh phúc và cảm giác ý nghĩa trong cuộc sống. Hành động này giúp họ rèn luyện lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và nhân ái. - Với xã hội: Khi mọi người biết chia sẻ và cho đi, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, nhân văn hơn. Những giá trị như tình yêu thương, sự gắn kết sẽ được lan tỏa, xây dựng một cộng đồng phát triển bền vững và văn minh. c) Lợi ích từ việc cho đi: - Cho đi giúp tạo ra những mối quan hệ tốt đẹp, gắn kết tình cảm giữa con người với nhau. - Cho đi làm giảm bớt những khoảng cách xã hội, xoa dịu nỗi đau, đem lại niềm tin cho những người khó khăn. - Khi cho đi, bản thân cũng cảm nhận được sự bình yên trong tâm hồn, làm phong phú đời sống tinh thần. d) Phê phán lối sống ích kỷ, chỉ biết nhận lại: - Những người chỉ biết sống cho bản thân, chỉ nhận mà không biết cho đi thường rơi vào trạng thái cô đơn, thiếu kết nối với mọi người xung quanh. - Lối sống ích kỷ làm suy giảm các giá trị đạo đức, gây ra sự chia rẽ, mâu thuẫn trong xã hội. e) Minh họa qua các ví dụ thực tế: - Các cá nhân, tổ chức từ thiện đóng góp tài sản, thời gian để giúp đỡ những người khó khăn. - Những người trẻ tham gia các hoạt động tình nguyện, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. - Tình huống người giàu cho đi không chỉ là tiền bạc mà còn là cơ hội, việc làm, giúp người khác vươn lên. 3. Kết bài: - Khẳng định lại giá trị của sự cho đi: Không chỉ là sự giúp đỡ mà còn là cách để tìm thấy hạnh phúc đích thực. - Kêu gọi mỗi người hãy biết cho đi nhiều hơn để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. |
3,0 điểm |
||
d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt |
0,25 điểm |
||
e. Sáng tạo - Bài viết có luận điểm rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt trong sáng, bài viết thể hiện được sự sáng tạo, độc đáo riêng. - Chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, văn phong lưu loát; không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu. |
0,25 điểm |
Baitap24h.com