BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Đáp án đề thi học kì 2 Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức, cánh diều, chân trời sáng tạo có đáp án cho toàn bộ chương trình học kì 1 giúp học sinh luyện thi hiệu quả.

1. Đề thi học kì 2 môn Văn 12 Kết nối tri thức

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Đọc đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu:

Về đồng

Mai về đồng Hội, đồng Hương

Mẹ ta đi gặt mờ sương chưa về

Tháng năm nắng bỏng bờ đê

Nhà ta rơm lúa bộn bề ngõ sân

Ngoài hiên vẫn rặng cúc tần

Gốc cau chum nước mấy lần chờ mưa

Mẹ ta về đã quá trưa

Bữa cơm thổi vội vẫn dưa cải ngồng

 

Cha ta vai gánh vai gồng

Còn thi với nắng trên đồng làng ta

Nửa đời phố thị đi xa

Ta về gặp lại quê  nhà rưng rưng

 

Nhà quê mặn muối cay gừng

Một mai bỏ phố ngập ngừng....lối quê.

(Tập thơ Gửi lại quê nhà; Nguyễn Quỳnh Anh;  NXB Văn Học, Trang 17-18)

Câu 1 (1,0 điểm): Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt của đoạn thơ.

Câu 2 (1,0 điểm): Anh/chị hiểu gì về hai câu thơ:

“Mẹ ta về đã quá trưa

Bữa cơm thổi vội vẫn dưa cải ngồng”

Câu 3 (1,0 điểm): Nêu cảm xúc của tác giả qua hai câu thơ sau

“Nửa đời phố thị đi xa

Ta về gặp lại quê  nhà rưng rưng”

Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ của tác giả qua hình ảnh “mặn muối cay gừng”?

Câu 5 (1,0 điểm): Anh/chị thích cuộc sống chốn thôn quê hay phố thị? Vì sao?

Phần 2: Viết (5.0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu.

Đáp án

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Câu 1: 

- Thể thơ: lục bát.

- Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.

Câu 2: 

Hai câu thơ chứa đựng tình cảm yêu thương thiết tha của người con đối với mẹ:

-  Sự đồng cảm, xót xa với nỗi nhọc nhằn và vất vả mà mẹ phải trải qua.

- Cuộc sống thiếu thốn, nghèo đói thể hiện trong bữa cơm qua quít, đạm bạc.

Câu 3:

Cảm xúc của tác giả qua hai câu thơ sau: sự xúc động, nghẹn ngào khi được trở về với quê hương. Quê hương là nơi tác giả đã lớn lên.  Nơi đó có cha, có mẹ, có cả tuổi thơ êm đềm, cuộc sống dù thiếu thốn nhưng bình yên, hạnh phúc.

Câu 4: Hình ảnh “mặn muối cay gừng” là cách vận dụng ca dao, tục ngữ một cách khéo leo của tác giả. Lấy ý tứ từ bài ca dao “Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Mượn ý tứ để khẳng định và tôn vinh nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt nam. Quê hương, mảnh đất với những con người chăm chỉ, chịu thương chịu khó, là tấm lòng thủy chung, gắn bó của cha mẹ, là ân tình sâu sắc nuôi dưỡng tâm hồn người đi xa trở về.

Câu 5: 

HS có thể lựa chọn một trong các nội dung sau và giải thích sự lựa chọn đó.

 Điều làm em ấn tượng nhất:

- Bức tranh đời sống người nông dân.

- Phẩm chất lao động của người dân ngày mùa.

- Tình cảm cảu tác giả dành cho cha mẹ và quê hương

Phần 2: Viết (5.0 điểm)

a . Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích và so sánh tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:

I. Khởi đầu

- Tố Hữu được coi là một trong những tượng đài hàng đầu của văn nghệ cách mạng trong thời hiện đại của Việt Nam.

- Tác phẩm thơ của Tố Hữu đa dạng và có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Phần thơ dưới đây thể hiện lòng nhớ nhà của những người phải rời bỏ Việt Bắc (trích từ bài thơ).

- Thơ của Tố Hữu thể hiện cuộc sống và tình cảm cách mạng của người Việt, mang trong mình nét đẹp văn hóa và truyền thống dân tộc. Từ đầu, cá nhân trong thơ của Tố Hữu không chỉ là cá nhân của một chiến sĩ, mà còn là cá nhân đại diện cho Đảng và nhân dân. Điều này được thể hiện rõ trong hai bài thơ “Từ ấy” và “Việt Bắc”.

II. Thân bài

1. Tổng quan về bài thơ, đoạn thơ

- Sau khi Điện Biên Phủ chiến thắng, miền Bắc giành được tự do. Vào tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước đã di chuyển từ Việt Bắc (nơi từng là trung tâm của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự chuyển động giữa những người ở lại và những người ra đi đã truyền cảm hứng cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.

- Đoạn thơ ở đầu bài thơ thể hiện điều này.

2. Nhận định về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ:

* Về nội dung:

- Đề cập đến ý chính của đoạn thơ: Tâm trạng đồng nhất từ đầu đến cuối, sự nhớ nhung sâu sắc, và tình thân ái giữa người ra đi và người ở lại. Hình ảnh của thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày, và những ký ức về cuộc chiến tranh hiện ra chân thật, sâu sắc.

- Hai dòng đầu:

+ Chữ “đây - đó” chỉ sự gần kề

+ “Đắng cay ngọt bùi” là biểu tượng của khó khăn và niềm vui

=> Hai câu thơ miêu tả mối liên kết chặt chẽ giữa người dân Việt Bắc và những người theo đường lối cách mạng, cùng trải qua gian khổ và chia sẻ niềm vui.

- Hai dòng tiếp theo:

+ Hình ảnh của “củ sắn lùi, bát cơm, chăn lùi” kết hợp với các từ như “chia, sẻ, cùng” thể hiện cuộc sống kháng chiến thiếu thốn, đắng cay và ngọt bùi cùng chia sẻ.

+ Biểu tượng cho tình cảm đậm đà giữa các tầng lớp xã hội

=> Hai câu thơ gợi lên biết bao tình cảm sâu sắc. Những khoảnh khắc ấy luôn hiện diện trong tâm trí người ra đi, ghi lại dấu ấn không thể phai nhạt trong lòng người ở lại.

- Hai dòng tiếp theo:

+ “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” là biểu tượng của sự lao động vất vả của người mẹ chiến sĩ trong cuộc chiến.

+ Một hình ảnh xuất sắc của sự đẹp và tình thương trong cuộc sống kháng chiến.

- Cuối cùng, bốn câu cuối: nhớ về Việt Bắc là nhớ về thời khắc sống trong cuộc kháng chiến không thể nào quên:

+ Nhớ “lớp học i tờ” xóa bỏ bóng tối của vô tri thức: Cách mạng mang lại cho nhân dân không chỉ tự do mà còn mang theo ánh sáng tri thức;

+ Nhớ nhịp sống trong những “ngày tháng cơ quan”, ”khó khăn vẫn được vượt qua bằng tinh thần lạc quan yêu đời của các chiến sĩ bất khuất;

+ Nhớ những âm thanh đặc trưng của vùng núi: tiếng rì rào của rừng chiều, tiếng gõ nhẹ của cối xay, tiếng suối chảy về xa xăm. Đó là những kỷ niệm về cuộc sống bình dị và hạnh phúc tại nơi núi rừng Việt Bắc.

+ Cấu trúc “Nhớ sao” lặp lại 3 lần với sự tương phản và cảm hứng lãng mạn.

=>Nỗi nhớ về Việt Bắc là một tình cảm sâu sắc và vĩnh cửu, vẫn vang mãi trong lòng mỗi người con kháng chiến.

* Về nghệ thuật:

- Bức tranh về Việt Bắc hiện ra qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, trong cái nhìn hoài niệm, có sự thống nhất và hòa nhập của ba phần chính: hồi ức về thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc và cuộc sống ở đó.

- Dòng thơ tâm hồn, êm đềm, đậm chất cảm xúc

- Sử dụng từ “nhớ” như một thông điệp, thông điệp lặp lại: nhớ sao… nhớ người…, cùng với cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên âm nhạc thơ đầy đặn.

- Hình ảnh thật, giản dị, đầy tính gợi cảm.

3. Tương quan với bài thơ 'Từ ấy'

* Thuyết minh: cái tôi trữ tình: là sự thể hiện cảm xúc riêng của nhà thơ đối với các vấn đề xã hội, sự tiến triển của lịch sử dân tộc;

=> Khẳng định Tố Hữu là một nhà thơ theo chủ nghĩa cộng sản vì cuộc sống cách mạng luôn là điều quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự sáng tác thơ của ông.

* Phân tích, chứng minh, bình luận:

Quá trình sáng tác của Tố Hữu luôn đi đôi với cuộc hành trình của cách mạng: các giai đoạn thơ tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Bài thơ “Từ ấy”:

+ “Từ ấy” được chọn từ tập thơ cùng tên, đây là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu – có ý nghĩa đặc biệt trên con đường sáng tác thơ của ông.

+ Bài thơ thể hiện một tính cách mạnh mẽ, một phong cách sôi nổi, và một quan điểm cá nhân tự do giữa các đồng chí, giúp cái tôi của nhà thơ được thể hiện tự do, không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy tắc nào, tạo nên những bài thơ đẹp, cảm động, say mê, và bay bổng nhất trong văn thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ XX.

+ Bài thơ cũng thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của một thanh niên giác ngộ về lý tưởng cách mạng.

+ Thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, tích cực và mạnh mẽ một cách mà thơ mới lãng mạn chưa từng biết đến.

- Phần trích đoạn từ 'Việt Bắc' và bài thơ nói chung:

+ Cái tôi đã hoà quyện với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình – Ta và mình như hòa quyện vào nhau, xen lẫn nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những người chiến đấu, nói về mình và người để thể hiện những tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc đối với những tình cảm ấy.

+ Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích cụ thể này, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong quá trình sáng tác này là cái tôi đồng lòng với cộng đồng, nhằm tôn vinh, tôn trọng hình ảnh của những người chiến đấu và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, lòng kính trọng trước sự hi sinh cao cả của họ.

+ Khẳng định tính chính xác của quan điểm “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi của một chiến sĩ, và điều này ngày càng rõ ràng hơn khi ông xác định mình là một phần của Đảng, một phần của cộng đồng dân tộc”.

III. Phần kết

- Tổng kết về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

- Ý kiến cá nhân về cái tôi trong thơ của Tố Hữu qua hai bài thơ.

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

e. Sáng tạo

- Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

2. Đề thi học kì 2 môn Văn 12 Chân trời sáng tạo

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Đọc đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu:

Mong manh nhất không phải là tơ trời

Không phải nụ hồng

Không phải sương mai

Không phải cơn mơ vừa chập chờn đã thức

Anh đã biết một điều mong manh nhất

Là tình yêu

Là tình yêu đấy em!

Tình yêu

Vừa buổi sáng nắng lên

Đã u ám cơn mưa chiều dữ dội

Ta chạy tìm nhau...

Em vừa ập vào anh...

Như cơn giông ập tới

Đã như sóng xô bờ, sóng lại ngược ra khơi

Không phải đâu em, không phải tơ trời

Không phải mây hoàng hôn

Chợt hồng...chợt tím...

Ta cầm tình yêu như đứa trẻ cầm chiếc cốc pha lê

Khẽ vụng dại...là thế thôi...tan biến

 

Anh cầu mong không phải bây giờ

Mà khi tóc đã hoa râm

Khi mái đầu đã bạc

Khi ta đi qua những giông-bão-biển-bờ

Còn thấy tựa bên vai mình

Một tình yêu không thất lạc

(Không phải tơ trời, không phải sương mai, Đỗ Trung Quân, NXB Văn hóa, 1988)

Câu 1 (1,0 điểm): Xác định thể thơ và nhân vật trữ tình của văn bản trên.

Câu 2 (1,0 điểm): Liệt kê những hình ảnh hiện thân cho điều mong manh mà tác giả nhắc đến trong đoạn trích?

Câu 3 (1,0 điểm): Anh/chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?

Ta cầm tình yêu như đứa trẻ cầm chiếc cốc pha lê

Khẽ vụng dại...là thế thôi...tan biến

Câu 4 (1,0 điểm): Anh/chị có nhận xét gì về quan niệm của tác giả được thể hiện trong khổ thơ cuối?

Câu 5 (1,0 điểm): Nêu những thông điệp mà anh/chị có thể rút ra được từ văn bản trên.

Phần 2: Viết (5.0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích và so sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Câu

Đáp án

Điểm

1

Thể thơ: Tự do.

Nhân vật trữ tình: Anh.

1,0 điểm

2

Những hình ảnh hiện thân cho những điều mong manh: tơ trời, nụ hồng, sương mai, cơn mơ, tình yêu.

1,0 điểm

3

-  Có thể hiểu về nội dung của các dòng thơ:

+Tình yêu đến trong trẻo tinh khiết nhưng cũng dễ tan vỡ và con người đến với tình yêu bằng trái tim ngây thơ khờ dại.

+ Ẩn chứa trong dòng thơ là sự trân trọng nâng niu giữ gìn những khoảnh khắc đẹp của tình yêu.

1,0 điểm

4

- Quan niệm của tác giả: Nhân vật trữ tình mong ước có một tình yêu mãnh mẽ, mạnh liệt: Tình yêu ấy có thể vượt qua sự thử thách của thời gian, có thể đi qua những giông tố của cuộc đời.

- Nhận xét: Đây là một quan niệm đúng đắn về một tình yêu chân chính. Quan niệm này chứng tỏ tác giả là người có niềm tin mãnh liệt vào 1 tình yêu bền chặt, có sức sống.

1,0 điểm

5

Thông điệp từ văn bản:

- Cuộc sống sẽ thật sự vô nghĩa nếu không có tình yêu.

- Tình yêu thật đẹp nhưng cũng thật mong manh, dễ tan vỡ.

- Hãy luôn có niềm tin vào một tình yêu trong sáng, vĩnh cửu.

1,0 điểm

Câu

Đáp án

Điểm

 

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

0,5 điểm

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích và so sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

0,5 điểm

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:

a. Mở bài

- Tổng quan về chủ đề liên quan đến những người lính cách mạng.

- Đồng thời, giới thiệu tổng quan về hai bài thơ mang tên "Đồng chí" của Chính Hữu và "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.

- Mục tiêu của phân tích là so sánh hình ảnh của người lính cách mạng được miêu tả trong hai bài thơ trên.

b. Thân bài

* Giống nhau

- Cả hai bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật chung điểm tương đồng trong việc miêu tả hình ảnh của người lính cách mạng:

+ Cả hai bài thơ đều khắc họa những con người mang trong mình vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng. Những người lính này được tạo dựng như những người có nghị lực và ý chí vững mạnh, luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và thử thách bằng niềm tin và tinh thần lạc quan.

+ Trong bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu đã tái hiện sự gian khổ và thiếu thốn mà những người lính đã phải đối mặt. Nhưng họ đã vượt lên trên tất cả bằng một nụ cười, nét vẽ "miệng cười buốt giá" trở thành biểu tượng cho sức mạnh và sự kiên cường của họ.

+ Trong bài thơ "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính", hình ảnh "bụi" và "mưa" có ý nghĩa tả thực, nhưng nó cũng mang trong mình ý nghĩa biểu tượng của những khó khăn. Tuy nhiên, những người lính đã vượt qua tất cả bằng ý chí và nghị lực, như được thể hiện qua việc sử dụng cấu trúc "không có... ừ thì..." và hàng loạt hình ảnh như "phì phèo châm điếu thuốc", "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha".

- Cả hai bài thơ "Đồng chí" và "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" đều thể hiện sự gắn bó và bền chặt của tình đồng chí, đồng đội.

+ Trong bài thơ "Đồng chí", người lính hiểu rõ nhau và chia sẻ mọi niềm đau, suy nghĩ. Hình ảnh "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" tượng trưng cho tình đồng chí sâu sắc và gắn bó của họ.

+ Trong "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính", dù trên chặng đường gian nan và vất vả, những người lính gặp nhau chỉ trong một thoáng chốc, nhưng họ trao nhau những cái bắt tay ấm áp, biểu thị mối quan hệ đồng đội chặt chẽ. Đối với họ, những người cùng chung bát đũa không chỉ là đồng đội mà còn là gia đình.

+ Cả hai bài thơ đều sự chủ động, ung dung và sẵn sàng chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược.

+ Trong "Đồng chí", hình ảnh người lính đứng ngay từ đầu, không chờ đợi kẻ thù đến gần, mà tự tin và mạnh mẽ đối mặt với họ, không hề có sự lo lắng hay sợ hãi.

+ "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" nhấn mạnh tư thế hiên ngang của người lính thông qua việc sử dụng các câu như "nhìn đất", "nhìn trời", "nhìn thẳng",... Điều này cho thấy tính quyết tâm và sẵn sàng chiến đấu của họ trước mặt kẻ thù.

Tóm lại, cả hai bài thơ đều thể hiện sự gắn bó đồng đội và tư thế chủ động, ung dung, sẵn sàng chiến đấu của người lính cách mạng.

* Khác nhau

- Hoàn cảnh xuất thân:

Trong bài thơ "Đồng chí", những người lính xuất thân từ những người nông dân, đến từ các vùng quê khác nhau.

Trong "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính", những người lính có nguồn gốc là những tri thức trẻ.

- Hình ảnh của người lính trong "Đồng chí" được miêu tả với sự mộc mạc, chân chất, phản ánh xuất thân từ những người nông dân. Trong khi đó, trong "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính", họ hiện lên với vẻ trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch và hài hước.

* Lí giải nguyên nhân

- Giống nhau: Cả hai bài thơ đều viết về đề tài người lính và tôn vinh những vẻ đẹp vốn có của họ.

- Khác nhau:

+ Đặc trưng văn học: Văn học là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo và sự độc đáo, không chấp nhận việc sao chép hay lặp lại.

+ Hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm:

Bài thơ "Đồng chí" ra đời vào năm 1948, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ra đời vào năm 1969, trong giai đoạn khốc liệt và tàn ác nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

c. Kết bài

Khẳng định lại hình tượng người lính trong hai bài thơ và nêu cảm nghĩ của bản thân.

3,0 điểm

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,5 điểm

e. Sáng tạo

- Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,5 điểm

 

3. Đề thi học kì 2 môn Văn 12 Cánh diều

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Đọc đoạn ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

(Lược đoạn đầu: Đậm là người phụ nữ hai mươi chín tuổi. Vì trót bồng bột mà có con rồi phải bỏ nhà ra đi. Đến khi ba mất, má Đậm mới rước con về. Những ngày giáp Tết, cô bán dưa hấu ở chợ thị xã. Bên trái là vạt bông của ông Chín từ miệt Sa Đéc xuống. Chỉ mình Đậm bán dưa một mình, may có Quí, một anh chàng chạy xe lam gần nhà, ít hơn Đậm bốn tuổi, tới giúp. Thấy thế, già Chín cũng cười chéo mắt vui lây…)

(1) Thời gian bị người ta chở kĩu kịt đi. Khiếp, mới đó đã hai mươi chín Tết. Bánh mứt, dưa hành, quần mới, áo mới như nước tràn lên phố. Đây là thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới nhất trong năm. Tết này không có ba mươi, hai chín rồi tới mùng một, như người ta bước hụt, thấy thiếu đi một ngày. Những khóm vàng hoa của ông Chín nở sớm từ hai bốn, hai lăm đã ngả màu vàng sậm. Bốn giờ sáng, ông đi qua bên kia đường gánh nước về tưới, than, "Thời tiết năm nay kỳ cục quá". Ông vấn điếu thuốc, phà khói, bảo: "Con biết không, nghề bán bông Tết cũng như bán lồng đèn Trung thu, qua rằm tháng Tám, có cho người ta cũng không thèm lấy. Buôn bán kiểu vậy như con gái có thì, qua rồi, khó lắm...”. Ông nói tới đây, thấy Đậm ngẩng đầu ngó sao muộn, ông thôi không nói nữa. Đậm nhớ con gái quá. Nghe Quí đem đồ về lại đem tin ra bảo, “Bộ đồ bé Lý mặc vừa lắm, nó đòi ra với Đậm, buôn bán như vầy cực quá, chở nó ra tội nghiệp...”. Rồi Quí bảo mớ bông mồng gà Đậm gieo sao mà khéo quá, bông đỏ bông vàng trổ ngay Tết.

(2) Đó là lúc chờ sáng, còn rỗi rãi xẻ dưa mời nhau, chứ ngày hai chín là một ngày tất bật, nói theo dân đá banh là thắng với thua. Người mua xúm xa xúm xít. Mới một buổi đã lử lả. Đậm một mình phải coi trước coi sau. Tưởng dưa hấu đắp đập ngăn sông mà đã vợi đi quá nửa. Nhưng chắc phải đợi cho tới giao thừa. Người ta chờ tới đó sẽ rẻ nữa. Chạy xong mấy chuyến xe buổi sáng, Quí lại giúp. Từ bến xe lam lại đằng chợ chừng một trăm mét. Quí kêu, "Có ai mua nhiều, Đậm hứa đi, tôi chở tới nhà cho". Đậm thấy vui, phần thì bớt lo dưa ế, phần thấy nao nao trong lòng. Cái không khí đẹp thế này, ấm thế này, không vui sao được. Quí hỏi, "Nhà Đậm có gói bánh tét không?". Đậm hỏi lại, "Có, mà chi?". "Tôi cho, má tôi gói nhiều lắm". Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ram ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.

(3) Lúc ngẩng lên được đã năm mới mất rồi. Nghe được tiếng trống giao thừa vọng về từ trung tâm thị xã. Ở đó có một lễ hội thật tưng bừng. Ông Chín đốt sáu nén nhang, chia cho Đậm nửa, biểu, "Con cúng giao thừa đi. Cầu an khang, sức khỏe, cầu năm tới giàu hơn năm nay". Mùi nhang thơm xà quần trong gió sực lên mũi Đậm một nỗi nhớ nhà. Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe. Ở chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về, những người còn lại cũng cố dọn dẹp làm sao mùng một có mặt ở nhà, pha bình trà cúng tổ tiên. Ông Chín đứng chỉ huy cho con trai ông bưng mươi chậu hoa còn lại lên xe hàng, quyến luyến, "Hồi nãy con tặng bác dưa ăn, giờ bác tặng lại con với cậu nhỏ hai chậu cúc đại đóa này. Năm tới, bác có xuống không biết được ngồi gần con như vầy không. Cha, đây về Sa Đéc chắc phải nhâm nhi dài dài cho đỡ buồn quá".

- Dạ, bác về mạnh giỏi, ăn Tết cho thiệt vui.

Đậm vén tóc, cười, thấy thương ông quá. Ông Chín leo lên xe còn ngoắt Quí lại nói thì thào, "Ê cậu nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu “Ra đường thấy cánh hoa rơi - Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta”. Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng". Nói rồi xe vọt đi, mấy người nữa lên xe vỗ vào thùng xe thùm thùm như gửi lại lời chào tạm biệt. Khói xe xoắn ra từng ngọn tròn tròn như con cúi.

(Lược đoạn cuối: Đậm quét dọn chỗ của mình rồi cùng Quí ra về. Quí cho xe chạy thật chậm, với ánh nhìn rất lạ về phía Đậm. Anh không biết vì một nỗi gì mà tới bây giờ anh chưa nói lời thương với người ta. Anh không ngại đứa con, anh không ngại chuyện lỡ lầm xưa cũ, tuổi tác cũng không thèm nghĩ đến. Còn Đậm thì luống cuống. Quí im lặng, dừng xe hẳn. Lúc này anh thấy cần nắm lấy bàn tay lạnh tái của Đậm, rất cần. Khi ấy giao thừa đã đi qua…).

(Nguyễn Ngọc Tư, Giao thừa, NXB Trẻ, TPHCM, 2022, tr.91-99)

Câu 1 (1,0 điểm): Xác định ngôi kể của văn bản trên.

Câu 2 (1,0 điểm): Chỉ ra biện pháp tu từ nổi bật trong hai câu văn: “Bánh mứt, dưa hành, quần mới, áo mới như nước tràn lên phố. Đây là thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới nhất trong năm.”

Câu 3 (1,0 điểm): Nêu tác dụng của chi tiết: Ông Chín leo lên xe còn ngoắt Quí lại nói thì thào, “Ê cậu nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu “Ra đường thấy cánh hoa rơi - Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta”. Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng”.

Câu 4 (1,0 điểm): Nếu có thể can thiệp vào câu chuyện, bạn muốn nói gì với nhân vật anh Quí?

Câu 5 (1,0 điểm): Từ nhân vật Đậm, bạn hãy nêu quan điểm về thái độ đối với phút sai lầm của tuổi trẻ.

Phần 2: Viết (5.0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích và so sánh giá trị nhân đạo thể hiện qua 2 tác phẩm: Lão Hạc và Làng.

HƯỚNG DẪN GIẢI

Phần 1: Đọc hiểu (5,0 điểm)

Câu

Đáp án

Điểm

1

Ngôi kể của văn bản: ngôi kể thứ 3.

1,0 điểm

2

- Gọi tên biện pháp tu từ nổi bật.

- Nêu biểu hiện cụ thể của biện pháp tu từ đó trong hai câu văn.

(Hai câu văn có sử dụng các biện pháp tu từ: điệp, liệt kê, so sánh… Tuy nhiên, cần nhận thấy liệt kê là biện pháp tu từ nổi bật nhất bởi đã nhấn mạnh sự phong phú, đa dạng của hàng hóa và không khí tươi vui, tấp nập, háo hức khi Tết đến rất gần).

1,0 điểm

3

Tác dụng của chi tiết:

- Chi tiết cho thấy phẩm chất của nhân vật ông Chín: là người trải đời, mộc mạc, rất quan tâm đến những người xung quanh.

- Chi tiết có thể xem như một chiếc chìa khóa giúp tháo cởi những ngập ngừng, e ngại của Quí, giúp anh vững lòng hơn để đến với Đậm.

- Chi tiết đã lột tả chất Nam Bộ ở người nông dân trong nhân vật ông Chín, mang đến màu sắc trữ tình cho lời kể.

1,0 điểm

4

- Nêu bật điều bản thân muốn nói với nhân vật anh Quí.

- Lí giải được lí do về những điều muốn nói đó.

1,0 điểm

5

Từ nhân vật Đậm, học sinh nêu quan điểm về thái độ đối với phút sai lầm của tuổi trẻ.

Câu trả lời cần đảm bảo:

- Lí giải tại sao tuổi trẻ thường mắc sai lầm.

- Nêu quan điểm của bản thân về thái độ đối với phút sai lầm của tuổi trẻ.

1,0 điểm

Phần 2: Viết (5.0 điểm)

Câu

Đáp án

Điểm

 

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

0,5 điểm

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích và so sánh giá trị nhân đạo thể hiện qua 2 tác phẩm: Lão Hạc và Làng.

0,5 điểm

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:

1. Giới thiệu ngắn gọn chung về Nam Cao và Kim Lân cùng văn bản

2. Phân tích

a. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Lão Hạc – Nam Cao

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,…

+ Nhân vật chính, lão Hạc, là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô đơn.

+ Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không lấy được người con gái mình yêu. Phẫn chí, anh bỏ làng đi cao su, cái đất cao su “đi dễ khó về”, “khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Anh rời cha già luôn mấy năm, thiên truyện khép lại nhưng hình bóng anh người đọc cũng chưa được mục kích, câu hỏi về số phận của anh đành rơi vào câm lặng…

+ Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong thời buổi ấy cũng túng thiếu dặt dẹo, đang sống cái đời “sống mòn”, “rỉ ra, mốc lên”. Có thể nói, “Lão Hạc” đã thể hiện lòng thương, sự đồng cảm với tất thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy.

- Nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình:

+ Tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là “cậu” Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người…

+ Không chỉ vậy, lão thậm chí còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con.

+ Cả ông giáo, dẫu gia đình vẫn bữa đói bữa no nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh…

+ Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt, hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm. Lão Hạc thà nhịn đói chứ không chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão không làm vậy vì nhất quyết không ăn vào của con. Lão cũng có thể chọn con đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Và lão không hề làm vậy. Con người ấy, đến lúc chết vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma. Cảm động hơn cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình “đã đi lừa một con chó”. Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng biết bao nhiêu!

=> Đồng cảm với số phận của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, giọng văn Nam Cao lạnh lùng, bàng quan nhưng ẩn sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt.

b. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Làng – Kim Lân

- Quan tâm đến sự đổi đời của người dân từ đó khám phá ra cội nguồn sức mạnh của người dân. Tin tưởng người nông dân – ông Hai: Ông tha thiết yêu làng Chợ Dầu và rất tự hào về làng mình.

+ Khoe làng:

Trước cách mạng: Ông khoe con đường làng đi chẳng lấm chân, khoe cái sinh phần của một vị quan lớn trong làng.

Sau cách mạng: Ông khoe về một làng Chợ Dầu cách mạng, làng Chợ Dầu chiến đấu.

+ Nhớ làng: Ở nơi tản cư:

Luôn nhớ về làng và muốn về lại làng Chợ Dầu.

Thói quen sang bác Thứ để kể chuyện làng -> kể để nguôi đi nỗi nhớ làng.

Tự hào vì làng Chợ Dầu tham gia chiến đấu ủng hộ cách mạng (chòi gác, đường hầm bí mật…)

+ Đau đớn khi nghe làng theo giặc và quyết tâm: làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc rồi thì phải thù.

+ Vui mừng, hớn hở như đứa trẻ khi nghe tin cải chính.

=> Cội nguồn của sự thay đổi tâm trạng của ông vẫn là tình yêu làng, yêu nước. Tin cải chính đã trả lại cho ông niềm tự hào về làng Chợ Dầu và niềm tự tin vào bản thân mình. Hai tình cảm lớn lại hòa nhập làm một trong tâm hồn người nông dân chất phác và trọng danh dự này.

c. Nhận xét

- Điểm chung: Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, những ước mơ trong sáng giản dị của con người.

- Điểm khác biệt:

+ Văn học 1930 -1945 coi con người là nạn nhân của hoàn cành, nhà văn khao khát đổi thay số phận con người nhưng bất lực (VD: Lão Hạc tìm đến cái chết).

+ Văn học 1945 - 1975: đề cao vai trò của con người, tin vào con người có khả năng cải tạo hiện thực và thay đổi số phận của mình bằng con đường đấu tranh cách mạng (ông Hai tin tưởng và tìm thấy ánh sáng cuộc đời ở Đảng, ở cách mạng).

- Lí giải nguyên nhân của sự khác biệt:

+ Các nhà văn giai đoạn 1930-1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán) mang ý thức hệ tư sản, tiểu tư sân, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên mới chỉ nhìn thấy tác động một chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người và hiện thực khách quan có phần bi quan, bế tắc.

+ Do hạn chế khách quan từ hoàn cảnh lịch sử.

+ Các nhà văn giai đoạn 1945-1975, họ đều là những người chiến sĩ cách mạng, họ trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giác ngộ và thấm nhuần cao độ lí tưởng cộng sản nên cổ tinh thần lạc quan, thấu suốt tương lai.

3,0 điểm

d. Chính tả, ngữ pháp

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

0,5 điểm

e. Sáng tạo

- Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,5 điểm