BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Viết đoạn văn chia sẻ cảm nhận về nhân vật Quang Trung với các bài văn mẫu hay và đa dạng sẽ giúp các em có thêm tài liệu, để học tập tốt môn Ngữ văn 8. Bạn đọc có thể tham khảo ngay sau đây để có thêm ý tưởng cho bài viết.

Bài văn về vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí chọn lọc nâng cao

Mẫu số 1

Trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí," đặc biệt là ở hồi thứ 14, hình tượng Nguyễn Huệ hiện lên như một biểu tượng rực rỡ của người anh hùng dân tộc, với những phẩm chất đáng kính phục. Nguyễn Huệ được khắc họa không chỉ với sự quyết đoán và mạnh mẽ trong hành động, mà còn với trí tuệ sắc bén, nhạy cảm trong mọi tình huống. Người anh hùng ấy mang trong mình ý chí sắt đá, tầm nhìn sâu rộng, cùng tài thao lược quân sự như thần, điều hành chiến trận một cách đầy oai phong, khiến kẻ thù khiếp sợ và quân sĩ phấn chấn.

Khi nhận tin giặc chiếm đóng Thăng Long, dù tình thế nguy nan nhưng Nguyễn Huệ không hề dao động. Ông ngay lập tức quyết định thân chinh, đích thân cầm quân ra trận mà không do dự một giây phút nào. Với tài thao lược và khả năng hành động mau lẹ, ông chỉ trong vòng một tháng đã làm nên những việc lớn lao, khiến cả quân dân nể phục. Từ đây, ta thấy được phẩm chất của một vị tướng tài ba: hành động không chỉ nhanh gọn mà còn đầy chủ đích, luôn tỉnh táo và quả quyết.

Nguyễn Huệ còn là một người có trí tuệ vượt trội, thể hiện qua khả năng phán đoán và dùng người một cách tinh tế. Ông luôn biết phân tích tình hình một cách sâu sắc, nắm bắt sự tương quan giữa ta và địch để đưa ra những chiến lược phù hợp. Điều này được minh chứng rõ ràng qua lời phủ dụ quân lính tại Nghệ An, khi ông khơi dậy niềm tự hào dân tộc và tinh thần quật khởi trong lòng mọi người. Những lời lẽ của Nguyễn Huệ không chỉ động viên binh sĩ mà còn truyền lửa cho họ, thức tỉnh ý thức về sự độc lập và lòng tự tôn của một dân tộc anh hùng. Chính sự sắc sảo và khả năng truyền cảm hứng ấy đã giúp ông xây dựng được một đội quân Tây Sơn vững mạnh, đầy khí thế, luôn sẵn sàng chiến đấu vì đại nghĩa.

Ngay khi cuộc chiến chống giặc bắt đầu, dù chưa giành được lợi thế rõ ràng trên chiến trường, Nguyễn Huệ vẫn tự tin khẳng định “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Ông thậm chí còn tính trước cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng một đối thủ hùng mạnh gấp mười lần. Tầm nhìn xa trông rộng ấy không chỉ phản ánh sự sáng suốt của một vị vua tài ba mà còn khẳng định quyết tâm chiến thắng và ý chí kiên định của một người anh hùng thực thụ. Ông không chỉ là người chỉ huy một trận đánh đơn thuần, mà là một chiến lược gia toàn diện, luôn sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, dù khó khăn đến đâu.

Hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn với khí thế hùng dũng khiến kẻ thù khiếp đảm, đến nỗi chúng phải thốt lên rằng “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất lên.” Đặc biệt, hình tượng Quang Trung Nguyễn Huệ xuất hiện đầy oai phong trong trận đánh, cưỡi voi đốc thúc quân sĩ, mặc chiếc áo bào đỏ rực, gương mặt sạm đen vì khói súng, tạo nên một hình ảnh vừa kiên cường, vừa anh dũng.

Nguyễn Huệ không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là người anh hùng “trí dũng song toàn”, toát lên hào khí dân tộc, luôn sẵn sàng chiến đấu vì độc lập tự do của đất nước. Hình tượng ấy không chỉ ghi dấu trong lòng nhân dân mà còn trở thành biểu tượng cho tinh thần quật khởi và tự tôn của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.

Mẫu số 2

Cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí viết bằng chữ Hán đã ghi lại những dấu mốc quan trọng trong lịch sử của Ngô gia văn phái, tạo nên hình ảnh của một người con của Việt Nam tài năng yêu quê hương đất nước, cống hiến cả cuộc đời cho nhân dân. Vị anh hùng của dân tộc – Quang Trung, đã có công lớn trong việc đại phá quân Thanh và được mô tả với một khí chất thật đẹp và tài chí trong mọi chiến lược qua đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.

Quang Trung là một anh hùng tài ba và mạnh mẽ, với tính cách quyết đoán và xông xáo trong mỗi hành động. Khi nhận được tin giặc đã xâm chiếm Thăng Long, ông đã tức giận và triệu tập tướng sĩ để họp. Ông nhanh chóng đưa ra quyết định “định thân chinh cầm quân đi ngay” và lên ngôi vua để tế cáo trời đất. Với sự lãnh đạo của Quang Trung, quân đội Việt Nam đã xuất quân và chỉ trong vòng một tháng đã đạt được nhiều thành tựu lớn.

Cùng với hành động quyết đoán, Quang Trung còn là con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Quang Trung có khả năng phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Những tội ác của giặc xâm lược đã được ông phơi bày ra để nhắc nhở nhân dân, rồi tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho các tướng sĩ bằng những tấm gương quả cảm từ thời xa xưa như Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng,… Ông còn có cách thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi, đưa ra những lời khen chê, thưởng phạt đúng người đúng việc, ta thấy rõ điều đó qua trường hợp của Sở và Lân.

Có thể nói, Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng, khi ông nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tính đánh đã có sẵn” rồi ông còn nhìn xa hơn khi nghĩ phương thức ngoại giao khi chiến tranh kết thúc để đất nước phục hồi lại, yên ổn, nuôi dưỡng phát triển để rồi sau này “ta có gì sợ chúng”. Vua Quang Trung là vị tướng cầm quân có tài thao lược hơn người, cách dùng binh như thần. Chúng ta không thể không khỏi kinh ngạc trước sự chỉ huy và sự thần tốc của quân lính khi đi đánh giặc, trong thời gian ngắn mà đường dài quân đội của ông vẫn chỉnh tề, tuân theo mọi chỉ huy của ông.

Trải qua cuộc hành quân dài, xa xôi chịu nhiều gian khổ nhưng dưới sự chỉ huy của Quang Trung cả đội quân đã chiến thắng quân địch một cách tuyệt đối bởi các chiến lược tài tình của Vị vua mưu trí. Hơn nữa, tài năng hiện lên thật lẫm liệt khi ông cũng chính mình xông ra trận chiến, tiến công, cưỡi voi, xông pha trước những mũi tên của quân địch.

Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm lịch sử quan trọng không chỉ vì nó ghi lại những dấu mốc quan trọng trong lịch sử của Ngô gia văn phái, mà còn vì nó tạo ra một hình ảnh đẹp, trong sáng của một người con của Việt Nam yêu quê hương, tài năng và cống hiến cả cuộc đời cho nhân dân. Dưới ngòi bút tài tình, điêu luyện của Ngô gia văn phái, người đọc đã cảm nhận được hình ảnh một ông vua lẫm liệt, anh dũng và đầy tài năng. Vua Quang Trung đã làm rạng danh cả dân tộc, đem lại bình an cho nhân dân và ông xứng đáng là một tượng đài bất tử trong lòng người dân Việt Nam.

Mẫu số 3

Khi đọc văn bản "Quang Trung đại phá quân Thanh," tôi vô cùng ấn tượng với hình ảnh vua Quang Trung, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, được tác giả khắc họa với nhiều phẩm chất đáng ngưỡng mộ. Đầu tiên, vua Quang Trung hiện lên là một con người có hành động quyết đoán và mạnh mẽ. Khi kinh thành Thăng Long rơi vào tay quân Thanh, vua Quang Trung không hề nao núng. Chỉ trong khoảng thời gian một tháng, ông đã nhanh chóng tổ chức các công tác chuẩn bị cho cuộc tiến quân ra Bắc, một quyết định thể hiện sự linh hoạt và nhạy bén trước tình hình. Ông không chỉ lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu thành Quang Trung mà còn tổ chức tế cáo trời đất, thể hiện lòng quyết tâm và niềm tin vào sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến.

Ngay sau đó, vua Quang Trung đích thân lãnh đạo quân đội, cả thủy quân và bộ binh, xuất phát tiến công quân địch ở phía Bắc. Ông đã tổ chức chiêu mộ quân lính tại Nghệ An, tiến hành duyệt binh quy mô lớn và sắp xếp, tái tổ chức đội ngũ một cách chặt chẽ, khoa học. Chính vua Quang Trung đã cưỡi voi đến từng doanh trại để khích lệ, yên ủi tinh thần binh sĩ, tạo nên một khí thế hào hùng và lòng tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Từ những hành động này, ta có thể thấy rõ sự quyết tâm và tài lãnh đạo của một bậc anh hùng thời đại, người không chỉ có bản lĩnh mà còn luôn chăm lo đến sức mạnh và tinh thần của quân đội.

Không dừng lại ở đó, vua Quang Trung còn nổi bật với trí tuệ hơn người, tầm nhìn xa trông rộng và khả năng phân tích tình hình một cách sáng suốt. Ông nhanh chóng nhận định rõ thế trận của quân ta và quân địch, đưa ra những quyết định quan trọng và táo bạo. Trong mọi tình huống, vua Quang Trung luôn giữ được sự bình tĩnh, không để tình hình làm lay động ý chí. Khi nghe tin quân Thanh đã chiếm đóng Thăng Long, thay vì lo lắng, ông lại bình thản tính toán kế hoạch, điều này cho thấy sự tự tin và quyết đoán của một nhà lãnh đạo thiên tài. Trước khi xuất quân, ông đã dự trù và lên kế hoạch sách lược rất cẩn thận, dự báo chính xác rằng chỉ trong vòng mười ngày có thể tiêu diệt quân Thanh và tiến vào Thăng Long để ăn mừng chiến thắng.

Trong trận chiến, vua Quang Trung chính là người trực tiếp điều binh khiển tướng, sử dụng những chiến lược đã chuẩn bị kỹ lưỡng để tấn công quân địch. Ông không chỉ chỉ đạo mà còn luôn sát cánh cùng binh lính, trở thành linh hồn của toàn bộ chiến dịch. Với sự mưu trí và dũng cảm, ông đã dẫn dắt quân đội giành chiến thắng vẻ vang, đánh bại quân Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long và đem lại độc lập cho dân tộc.

Tóm lại, hình ảnh vua Quang Trung không chỉ hiện lên là một vị tướng tài ba, dũng cảm mà còn là một người có tâm hồn cao đẹp, trí tuệ xuất chúng. Ông là biểu tượng cho lòng yêu nước nồng nàn và sự quyết tâm chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh ấy thật sự khiến cho bất kỳ ai cũng phải cảm phục và kính trọng.

Mẫu số 4

Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự và là một anh hùng dân tộc vĩ đại. Hình ảnh của vua Quang Trung tượng trưng cho tinh thần kiên cường và không khuất phục của người Việt Nam. Với tuổi đời chỉ mới 39, Quang Trung đã dành 22 năm đánh chiếm các vùng Nam và Bắc, tạo nền tảng cho quá trình thống nhất đất nước. Ông cũng đã đánh bại quân Thanh và xua đuổi quân Xiêm, góp phần bảo vệ độc lập của nước Việt Nam. Mỗi chiến công trong cuộc đời của Quang Trung đều là một cột mốc lịch sử quan trọng trong sự hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Nói đến vua vua Quang Trung, trước hết là về tính cách ông là một vị một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán trong mỗi lần ông ra trận hoặc quyết định một vấn đề trọng đại. Nghe tin giặc đã kéo đến tận thành Thăng Long ông đã rất tức giận và ngay lập tức cho triệu tập các tướng lĩnh học khẩn cấp “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong chỉ khoảng thời gian một tháng, vua Quang Trung đã thực hiện bao việc lớn: “Tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính vào lực lượng quân sự hùng hậu, đồng thời mở các cuộc duyệt binh lớn tại vùng đất Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.

Vua Quang Trung được biết đến như một anh hùng mạnh mẽ và quyết đoán, nhưng còn nổi tiếng với trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng. Ông có khả năng mưu cao trí lược và cái nhìn khái quát giúp ông định hình về tình thế và thời cuộc. Với mục đích “yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, ông luôn cân nhắc mọi quyết định trước khi đưa ra, để đạt được mục đích cuối cùng. Ông là một người phân tích tình hình quân địch và nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Trong bài hịch, ông đã đưa ra các tội ác của giặc và nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc, từ đó khích lệ tinh thần quân sĩ. Ông sử dụng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ “mềm lòng” dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung cũng hiểu rõ sở trường và sở đoản của các tướng lĩnh dưới trướng mình. Ông sử dụng trách mắng để giúp họ nhận ra khuyết điểm và tha cho họ. Với những hành động sáng suốt, ông giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục. Tất cả những điều đó khiến ông xứng đáng là một trong những chủ tướng tài ba và xông xáo nhất trong lịch sử Việt Nam.

Ông kiên quyết khẳng định có thể lấy lại kinh thành Thăng Long chỉ trong vòng mười ngày, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng, khéo léo dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, Quang Trung thể hiện tài cầm quân tài ba, tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc, tan tác vỡ trận.

Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, có tài trí, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất, vị vua anh minh, sáng suốt đã dẫn dắt đất nước trong suốt bao nhiêu năm.

Mẫu số 5

Khi đọc Hồi thứ 14 trong "Hoàng Lê nhất thống chí" của Ngô gia văn phái, ta cảm nhận sâu sắc về hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, một bậc kỳ tài trong lịch sử quân sự nước ta. Không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại, ông còn là một chiến lược gia xuất sắc, người đã chỉ huy quân đội với trí tuệ và bản lĩnh phi thường. Khi quân Thanh xâm lược nước ta, giữa lúc tình hình nguy nan, vua Quang Trung nhanh chóng thể hiện khả năng ứng biến tuyệt vời. Ngay khi nhận được tin cấp báo về sự xâm lăng, ông không chần chừ mà ngay lập tức tự mình vạch ra chiến lược tiến công táo bạo, một cuộc hành quân thần tốc, bí mật tiến ra Bắc mà chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Cuộc tấn công này thể hiện rõ sự thông minh và quyết đoán của ông trong việc điều binh khiển tướng.

Điểm nổi bật nhất về tài năng quân sự của Quang Trung được thể hiện qua cách ông phủ dụ quân lính tại Nghệ An. Lời hịch của ông không chỉ đơn thuần là những mệnh lệnh quân sự, mà là tiếng gọi của quê hương, của dân tộc, kích thích lòng yêu nước, khơi dậy trong quân lính niềm tự hào dân tộc và khát vọng bảo vệ tổ quốc. Chính những lời động viên này đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến đấu, giúp quân đội Tây Sơn dưới sự chỉ huy của ông trở thành một lực lượng không thể ngăn cản.

Không chỉ giỏi trong việc thuyết phục và khích lệ tinh thần quân sĩ, Quang Trung còn nổi bật với những chiến thuật linh hoạt, phong phú. Ông không chỉ tấn công một cách trực diện mà còn sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau, khiến quân địch không kịp phản ứng. Khi thì ông bí mật bao vây quân Thanh ở đồn Hà Hồi, buộc giặc phải đầu hàng không kịp trở tay. Khi lại dẫn quân tấn công dũng mãnh, táo bạo vào đồn Ngọc Hồi, khiến quân giặc kinh hoàng. Lúc khác, ông lại dùng chiến thuật nghi binh ở đê Yên Duyên, khiến quân Thanh bối rối, không biết phải đối phó thế nào. Ông cũng không quên sử dụng mai phục tại Đầm Mực, tạo nên một trận địa mà quân địch không thể nào tránh thoát. Sự đa dạng và linh hoạt trong cách đánh trận của Quang Trung đã biến quân Tây Sơn thành một đội quân bất khả chiến bại, tiến quân như vũ bão, áp đảo quân địch, tạo nên những chiến thắng vang dội.

Chiến thắng của quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung không chỉ là một sự kiện quân sự thông thường, mà còn là minh chứng cho tài năng quân sự phi thường của ông. Quân Thanh, một đội quân hùng mạnh, đã hoàn toàn thất bại trước chiến lược của ông. Cảnh tượng "thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước" là bằng chứng cho sự thảm bại của quân địch. Tướng giặc Sầm Nghi Đống, không thể chịu nổi áp lực, đã phải "thắt cổ tự vẫn", còn Tôn Sĩ Nghị, kẻ cầm đầu quân xâm lược, phải bỏ chạy về nước trong tình cảnh hoảng loạn, không kịp đóng yên ngựa.

Không chỉ là một bậc anh hùng quân sự lão luyện, Quang Trung còn được ghi nhớ như một người đã cứu nguy cho cả dân tộc, đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang, đem lại hòa bình và độc lập. Hình tượng Quang Trung – Nguyễn Huệ không chỉ sống mãi trong lòng dân tộc mà còn được khắc họa một cách sâu sắc, sống động qua những trang văn của Ngô gia văn phái. Các tác giả đã thành công trong việc tái hiện một thời kỳ lịch sử oanh liệt, thấm đẫm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Đại Việt. Tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" nhờ vậy mà trở thành một tác phẩm văn học sử đặc sắc, không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng mà còn là bản hùng ca ca ngợi sức mạnh và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên qua tác phẩm không chỉ là một vị anh hùng tài ba mà còn là biểu tượng bất khuất của lòng yêu nước, trí tuệ và sự quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Những chiến công lẫy lừng của ông sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử, và nhân dân Việt Nam đời đời biết ơn ông vì những đóng góp to lớn cho đất nước.

Mẫu số 6

Đọc 'Hồi thứ 14' trong 'Hoàng Lê nhất thống chí' của Ngô gia văn phái, ta thấy vị anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ là một danh tướng tài ba. Khi nghe tin quân Thanh tấn công, ông đã tự lập phương sách chiến đấu và dẫn đầu quân lính tấn công mạnh mẽ, tiến vào Bắc một cách bí mật, tạo nên một chiến công vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Ông có khả năng lãnh đạo xuất sắc, được thể hiện rõ nhất trong lời phát ngôn động viên quân lính tại Nghệ An và trong việc quản lý tướng sĩ. Lời của ông truyền cảm hứng, làm tăng sự yêu nước, khơi dậy lòng căm thù với kẻ thù, và động viên tinh thần hy sinh vì đất nước. Chiến thuật của Quang Trung linh hoạt, đa dạng, và luôn ở thế thượng định, khiến kẻ thù không thể đối phó. Ông bao vây đồn Hà Hồi, đấu tranh can đảm tại đồn Ngọc Hồi, tấn công kẻ thù ở đê Yên Duyên, và chiếm đóng Đầm Mực... Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung hành quân như một cơn gió lốc, khiến quân thù bị đánh bại tan tác. Thắng lợi của ông làm cho quân Thanh chạy trối chết, tướng quân Sầm Nghi Đống tự vẫn, và Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy 'như thả cỏ mèo'... Quang Trung thật sự là một anh hùng lẫn lão luyện, một danh tướng vĩ đại được ghi nhận trong lịch sử, và được nhân dân biết ơn từng đời đời. Sự khắc họa và xây dựng hình ảnh của Nguyễn Huệ là một thành tựu đặc biệt của văn sĩ trong Ngô gia văn phái, làm cho 'Hoàng Lê nhất thống chí' trở nên đầy chất yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam.

Mẫu số 7

Nguyễn Huệ - anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam ở Tây Sơn là niềm tự hào của quốc gia. Với tài năng quân sự vượt trội, ông đã đánh bại hàng chục nghìn quân Thanh, làm cho kẻ bán nước phải xấu hổ và khiếp sợ. Hồi thứ mười bốn trong 'Hoàng Lê nhất thống chí' của nhóm Ngô gia văn phái đã thể hiện đầy đủ bức tranh về anh hùng Nguyễn Huệ. Đọc càng nhiều, ta càng ngưỡng mộ tài năng phi thường của vị anh hùng áo vải từ Tây Sơn. Không chỉ là một thiên tài quân sự 'xuất quỷ, nhập thần', Quang Trung còn là một vị tướng quân yêu nước, với ý thức dân tộc sâu sắc. Ông là biểu tượng của sự đối lập với những vị vua hèn nhát, bán nước. Quang Trung luôn được nhân dân kính trọng, yêu mến.

Mẫu số 8

Trong 'Hoàng Lê nhất thống chí', hồi thứ 14, hình tượng Nguyễn Huệ được vẽ lên với những phẩm chất của một anh hùng thực thụ. Ông thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sâu sắc, và ý chí quyết thắng trong trận đấu. Mọi hành động của Nguyễn Huệ đều là mạnh mẽ, nhanh nhẹn, và quyết đoán. Nghe tin kẻ thù xâm lược, ông không do dự mà ngay lập tức chuẩn bị chiến đấu. Trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều kế hoạch lớn. Ông có trí tuệ sáng suốt, được thể hiện qua khả năng phân tích tình hình và sự cân nhắc trong quyết định. Lời kêu gọi của ông đã đánh thức ý thức độc lập và tình yêu nước, làm tăng lòng tự hào dân tộc. Quang Trung là một vị vua thông minh, có tầm nhìn xa trông rộng, và sẵn sàng đối đầu với mọi thách thức. Sự kiêu hãnh của quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của ông đã khiến cho kẻ thù sợ hãi, và đánh bại chúng một cách vinh quang. Quang Trung - Nguyễn Huệ là một anh hùng đích thực, một biểu tượng của lòng yêu nước và trí dũng của dân tộc Việt Nam.

Mẫu số 9

Trong lịch sử dân tộc có rất nhiều người anh hùng đã đi vào thơ ca nhạc họa. Đặc biệt hơn đó là người anh hùng anh vải Quang Trung - Nguyễn Huệ đã được khắc họa rất chân thực trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Ông là người có công trong trận chiến đại phá quân Thanh. Qua trận chiến ông thể hiện được sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng. Để giành được chiến công vang đội đến ngày hôm nay thì ông phải là người hành động mạnh mẽ và quyết đoán, khi nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “ tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “ đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Và không chỉ vậy hình ảnh Nguyễn Huệ trong chiến trận cũng để lại cho chúng ta ấn tượng về một vị hoàng đế thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông đã hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế… Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù ( bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…).Vậy nên cho đến ngày nay người ta vẫn còn ca ngợi và thán phục mưu trí, tài dùng binh của ông, là một tấm gương sáng để mọi người noi theo và học tập.

Mẫu số 10

Trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của một người anh hùng. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, sâu sắc, nhạy bén, ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng và tài dụng binh như thần, oai phong lẫm liệt trong trận đấu. Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là một con người hành động xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và quả quyết vô cùng. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ làm được nhiều việc lớn. Ông còn là một người có trí tuệ sáng suốt hơn người, trí tuệ ấy được biểu hiện trong việc xét đoán, dùng người, biết phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta-địch. Qua lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, ông đã đánh thức, khơi dậy ý thức độc lập cũng như tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần quật khởi để kích thích mọi người. Khi mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà Quang Trung tuyên bố như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi thắng một nước lớn gấp mười lần nước mình. Điều đó đã thể hiện ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng của một vị vua sáng suốt, một người anh hùngkhông chỉ chiến đấu trên danh nghĩa, chỉ huy một chiến dịch thực sự. Khí thế của nghĩa quân Tây Sơn khiến kẻ thù khiếp vía thốt nên rằng “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất lên”. Nổi bật trong trận đánh là hình ảnh Quang Trung “cưỡi voi đốc thúc, mặc áo bào đỏ, mặt sạm đen khói súng.” Thật oai phong, lẫm liệt biết nhường nào! Quang Trung - Nguyễn Huệ thật sự là một người anh hùng trí dũng song toàn, sáng ngời hào khí dân tộc.