Bút pháp đối lập trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nét qua những hình ảnh tương phản giữa vẻ đẹp thơ mộng và sự dữ dội của dòng sông. Cách sử dụng đối lập này không chỉ tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mà còn phản ánh sâu sắc tâm hồn người lái đò.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của Việt Nam, các tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông. Ở lớp 11, học sinh học truyện ngắn "Chữ người tử tù", và ở lớp 12, họ tiếp cận với thiên tùy bút "Người lái đò Sông Đà". Cả hai tác phẩm này đều thuộc trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Mặc dù thuộc hai thể loại khác nhau, cả "Chữ người tử tù" và "Người lái đò Sông Đà" đều được xây dựng trên cơ sở bút pháp đối lập. Trong "Chữ người tử tù", thủ pháp đối lập được sử dụng từ nhan đề, cách xây dựng nhân vật cho đến cảnh tượng cho chữ “có một không hai trong lịch sử” ở cuối truyện. Còn trong "Người lái đò Sông Đà", tuy không đậm đặc bằng, nhưng thủ pháp đối lập cũng là chủ đạo của tùy bút này.
Bút pháp đối lập trong "Người lái đò Sông Đà" được thể hiện trước hết trong việc miêu tả thiên nhiên – cụ thể là con sông Đà. Trong số những con sông ở miền Bắc, Nguyễn Tuân chọn sông Đà làm nguồn cảm hứng vì ông nhận thấy ở con sông này những nét đặc biệt mà không con sông nào có được. "Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu" – một mình sông Đà chảy về phía bắc trong khi các dòng sông khác đều chảy về biển phía đông. Sự khác biệt về dòng chảy này đã là một phép đối lập tự thân, khách quan mà Nguyễn Tuân tận dụng.
Qua ngòi bút tài hoa của ông, dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp trữ tình hiếm thấy. Vẻ đẹp này được kết hợp bởi ba yếu tố: cảnh sắc thiên nhiên, sự hoang dại của hai triền sông, và sự giàu có của sản vật quý hiếm. Bằng sự quan sát tỉ mỉ và mẫn cảm, Nguyễn Tuân biến dòng sông Đà thành một bản tụng ca của nghệ thuật phối màu sắc thiên nhiên. Dòng sông tuôn dài như áng tóc trữ tình, nước sông biến đổi màu sắc theo mùa. Bên cạnh vẻ đẹp hiền hòa ấy là vẻ đẹp của hai triền sông, với cỏ gianh đồi núi và đàn hươu cúi đầu ăn cỏ. Sông Đà còn giàu có với nhiều loài cá quý hiếm. Ba vẻ đẹp này kết hợp tạo nên vẻ đẹp trữ tình huyền ảo, đối lập với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của chính sông Đà.
Đối lập với triền sông đẹp là những hang đá, vách đá dựng đứng, hoang sơ, lạnh lẽo. Đối lập với dòng nước hiền hòa là những con gió dữ quanh năm thổi ào ào và những đợt sóng ầm ầm như muốn nuốt chửng mọi vật trên đường đi.
Bút pháp đối lập được thể hiện rõ nhất trong phần miêu tả người lái đò vượt sông. Trong đoạn này, chúng ta gặp hàng loạt sự đối lập. Sự hung tợn của nước được miêu tả qua sức mạnh của ngọn lửa. Nguyễn Tuân sử dụng ánh lửa để tái hiện cảnh ông lái đò vượt thác. Nước sông biến động khôn lường, đối lập với sự tĩnh lặng đến chết người của những tảng đá. Thạch trận trên sông với hàng trăm viên đá to nhỏ, mỗi lớp chỉ có một cửa sinh còn toàn cửa tử, tạo nên sự nguy hiểm đáng sợ.
Sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn với ông lái đò cô độc cũng được thể hiện rõ ràng. Ông lái đò đối đầu với thiên nhiên hoang dã và bạo nghiệt bằng kinh nghiệm, sự bình tĩnh và tự tin. Ông am hiểu dòng nước, vượt qua thác ghềnh nguy hiểm và nở nụ cười mãn nguyện khi vượt qua đoạn sông dữ.
Có thể nói bút pháp đối lập là thủ pháp được Nguyễn Tuân rất ưa chuộng và sử dụng tài tình trong hầu hết các sáng tác của ông. "Người lái đò Sông Đà" là một trong những tác phẩm mà bút pháp đó được đẩy đến mức tận thiện, tận mỹ.