BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Do đặc trưng của việc bàn luận, làm sáng tỏ một vấn đề xã hội nào đó, cũng giống như các bài văn nghị luận nói chung, một bài văn nghị luận xã hội cần có sự kết hợp thành thạo giữa các thao tác nghị luận, lập luận chặt chẽ, thuyết phục, bố cục lôgic.

Các thao tác sử dụng trong văn nghị luận xã hội là:

1. Giải thích

Là vận dụng tri thức lí giải cho người khác hiểu vấn đề mà mình đề cập tới. Trong bài văn nghị luận xã hội, thao tác giải thích thể hiện cụ thể trước hết ở việc giải nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng) của các khái niệm, các từ nghữ khó hiểu… Trên cơ sở đó giả thích toàn bộ vấn đề (chú ý đến nghĩa tường minh và hàm ẩn). Trong thao tác giải thích, người viết vừa dùng lí lẽ để phân tích, lí giải vừa dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, có tính biện chứng, chống lại những cách hiểu sai, hiểu không đầy đủ về vấn đề xã hội đã được đưa ra.

Thực chất của thao tác này là việc đi vào trả lời các câu hỏi:

– Vấn đề xã hội được đưa ra nghị luận là gì?

– Cần phải hiểu vấn đề đó như thế nào?

– Tại sao lại có cách hiểu như vậy?

– Và cách hiểu đó dẫn đến kết quả như thế nào?

Kết thúc thao tác giải thích, người viết phải làm cho người đọc, người nghe hiểu rõ được tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm.

Ví dụ minh họa: Đức Phật dạy: Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi.

Anh (chị) nghĩ gì về lời dạy trên? Viết bài văn bàn về vai trò của cá nhân và tập thể.

Vấn đề xã hội được đưa ra nghị luận là vai trò của cá nhân và tập thể được thể hiện trong một lời dạy của Phật.

Để hiểu vấn đề trên người viết cần:

a. Giải thích lời răn dạy của Đức Phật

– Nghĩa đen:

+ Giọt nước là sự riêng rẽ dễ bay hơi, khó tồn tại.

+ Đại dương (biển cả) do muôn triệu giọt nước tạo thành nên không cạn. Khi đại dương không cạn, giọt nước trong đại dương sẽ còn tồn tại.

– Nghĩa bóng:

+ Phật răn dạy chúng sinh một điều: Con người, cá nhân chỉ tồn tại trong cộng đồng, trong tập thể, chỉ có sức mạnh khi hòa nhập.

b. Trả lời câu hỏi: Tại sao lại như vậy?

– Cuộc sống có nhiều khó khăn, vất vả; một cá nhân không thể làm hết mọi việc, đáp ứng mọi nhu cầu.

– Bước vào tập thể, con người học tập sẻ chia, giúp đỡ, dộng viên nhau; xây dựng tập thể vũng mạnh trong đó mỗi cá nhân đều được đáp ứng nhu cầu.

– Cá nhân và tập thể có mối quan hệ khăng khít: Cá nhân xây dựng lên tập thể, tập thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển.

Trên cơ sở giải thích ý nghĩa của lời dạy, giải thích ý nghĩa của vấn đề xã hội đưa ra bàn luận: Vai trò cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể.

2. Phân tích

– Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn diện về nội dung, hình thức của đối tượng.

– Đối tượng phân tích của bài văn nghị luận xã hội là một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực xã hội, được thể hiện trực tiếp trong yêu cầu của đề bài hay qua một câu tục ngữ, một câu danh ngôn, một ý kiến, một nhận định, qua vấn đề xã hội thể hiện trong văn học. Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong của sự việc, hiện tượng đó. Phân tích để nhận đầy đủ và sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội đang được đưa ra xem xét, bàn luận. Yêu cầu khi phân tích cần phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sauk hi phân tích, tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết, phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đầy đủ, chính xác.

Ví dụ minh họa: Đức Phật dạy: Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi.

Giọt nước chỉ hoà vào biển cả mới không cạn mà thôi – nó là chân lí, là châm ngôn của cuộc sống này. Đức Phật lấy cái nhỏ nhoi là “giọt nước” để nói đến cái vĩ đại cái lớn lao là “biển cả” như một dụng ý cho ta chiêm nghiệm. Ban đầu, nó như hai mặt đối lập nhưng nếu nghiền ngẫm, đó là hai yều tố hòa trộn, cấu thành nhau. “Giọt nước” nhỏ bé và sẽ khô cạn đi nhanh chóng nếu chỉ lẻ loi một mình nó. Nhưng khi nó hòa vào biển lớn mênh mông, hòa vào hàng triệu, hàng tỉ giọt nước khác thì nó trở thành một thế lực lớn của thiên nhiên, chiếm đến 1/3 diện tích của quả cầu này. Đồng thời, mọi sông sâu biển lớn đều sẽ khô cạn kiệt quệ nếu không nhận được sự bồi đắp “rả rích” của từng giọt nước. Nhìn nhận như vậy ta mới nhận ra rằng số phận con người cũng sẽ như mọi giọt nước và bất kì môi trường sống nào cũng giống như mọi sông sâu biển rộng. Có tạo ắt có hủy. Quan trọng là cách bảo vệ, duy trì để nó được lâu dài, tạo ra một môi trường tốt để con người và mọi sinh vật khác cùng phát triển. Lời của Đức Phật ngắn gọn mà sâu sắc!

Một con người chỉ biết sống cho bản thân, không quan tâm đến mọi người hẳn sẽ có một cuộc sống rất bình yên – nhưng đó là sự bình yên trong “im lặng” bởi chẳng có ai quan tâm hay làm phiền bạn cả. Sự bình yên ấy sẽ tan vỡ khi bạn gặp những khó khăn, ốm đau hay bệnh tật. Cũng không hẳn những nguời không có lối sống cộng đồng thì không thể tồn tại, điều tôi muốn nói là mọi người sẽ khó tồn tại nếu thiếu lối sống cộng đồng. Nó là điều đơn giản nhưng không phải ai cũng hiểu bởi xung quanh họ luôn là những áp lực về tinh thần, những giá trị vật chất. Bạn cần hiểu và nhớ rằng con người là một loài “động vật có tinh thần” và cái “tinh thần” ấy bao gồm cả tính cộng đồng, đoàn kết. Nó chính là sức mạnh giúp con người vượt qua tất cả mọi khó khăn rào cản. Chính nhờ sự đoàn kết mà con người vượt qua được những cơn giận dữ của thiên nhiên. Chính nhờ nó mà mỗi dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại được nền độc lâp. Chính nhờ nó mà mỗi trận bóng đá khi có đầy đủ cầu thủ đều mang lại thành công… Đó chính là “lối sống cộng đồng” – thứ mà một cá nhân thì không thể làm được:

Một ngôi sao chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng

Một người đâu phải nhân gian

Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi!

Núi cao bởi có đất bồi

Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu?

Muôn dòng sông đổ biển sâu

Biển chê sông nhỏ biển đâu nước còn?

(Tiếng ru – Tố Hữu)

Con người sống đoàn kết, chan hòa yêu thương lẫn nhau thì lối sống sẽ ngày càng phát triển cũng giống như giọt nước hòa vào biển lớn mới không cạn. Sống một cuộc sống hòa nhập, có trách nhiệm với cộng đồng, gắn kết với xã hội thì có thể ta sẽ phải cho đi rất nhiều, nhưng những thứ mà ta nhận được lại càng nhiều hơn. “Đoàn kết là sức mạnh”, chỉ có sự đoàn kết, sự gắn kết với nhau mới cho ta sức mạnh để ta tồn tại, để ta phát triển trong thế giới này. Ông bà ta có câu:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Nó cũng như lời dạy của Đức Phật. “Có những thứ một mình ta sẽ không làm được, nhưng một cộng đồng, một xã hội sẽ làm được”.

Xã hội, cộng đồng là những cái mà ta không thể tách rời được cũng như “giọt nước” nếu tách rời “biển cả” thì sẽ nhanh chóng bị cạn khô. Thế nên khi ta sống, thì ta phải biết đến cộng đồng, phải có trách nhiệm với xã hội, phải biết hòa nhập với mọi người và cũng bởi “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.

3. Chứng minh

Là đưa ra những cứ liệu, dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một ý kiến, làm sáng tỏ vấn đề xã hội đang bàn luận, thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng vào ván đề đang được nghị luận.

Để chứng minh, trước hết, người viết cần phải hiểu về điều cần chứng minh. Chứng minh làm sáng rõ cho những thao tác giải thích trước đó cũng như chứng minh cho những luận điểm, luận cứ trong bài viết. Tùy theo yêu cầu của đề, cần phải có sự khoang vùng những vấn đề xã hội được bàn, đưa ra các dẫn chứng xác đáng, tiêu biểu và toàn diện nhất để làm sáng tỏ điều cần chứng minh. Dẫn chứng đưa ra cần có sự chọn lọc, tránh việc đưa dẫn chứng quá nhiều, không tiêu biểu, không sát với vấn đề được nghị luận, biến bài nghị luận thành bài liệt kê số liệu xã hội. Dẫn chứng đưa ra cần có lí lẽ phân tích, để làm nổi bật những điểm phục vụ cho việc nghị luận, làm sâu sắc thêm vấn đề.

Để dẫn chứng và lĩ lẽ có sức thuyết phục cao, phải sắp xếp chúng thành một hệ thống mạch lạc và chặt chẽ theo các mặt của vấn đề, theo trình tự thời gian, không gian, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong… cho hợp lí và lôgic. Các dẫn chứng đưa ra cần là những dẫn chứng phục vụ đắc lực cho việc bàn luận về các vấn đề xã hội, tức cũng mang tính xã hội, có ý nghĩa trong đời sống xã hội.

Ví dụ minh họa: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.

Để làm sáng tỏ được vấn đề, cần đưa ra dẫn chứng chứng minh cho các luận điểm:

– Thực trạng tai nạn giao thông.

– Hậu quả của vấn đề.

– Các hành động của tuổi trẻ học đường trong việc góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.

Dưới đây là đoạn văn chứng minh:

Thực tế cho thấy, những năm gần đây, vấn đề giao thông, đặc biệt ở các đô thị lớn của cả nước, càng trở nên phức tạp. Hạ tầng giao thông không theo kịp với sự phát triển của kinh tế – xã hội đã dẫn đến sự ách tắc giao thông và đặc biệt đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng mà nhắc đến con số người chết và bị tàn tật do tai nạn giao thông gây ra, ai cũng thấy bàng hoàng. Trong vòng bốn năm qua (2013 – 2017), số vụ tai nạn giao thông đã tăng gấp sáu lần. Theo điều tra chấn thương liên trường (VMIS), trong năm 2013 có 9.100 người chết do tai nạn giao thông, tương đương với 25 người chết/ ngày. Và, những tai nạn giao thông từ những cuộc đi “bão” mà người ta dùng chỉ những loại người bất hảo ưa tốc độ một cách vô lí đã làm mất đi những công dân lương thiện đang tham gia giao thông. Để hạn chế tai nạn giao thông không phải còn là vấn đề đơn giản, mà đó đã và đang là vấn đề nóng cho toàn xã hội và đất nước. Vì vậy, với việc giảm thiểu tai nạn giao thông nói chung, nhà nước cần phải có một số biện pháp mạnh với những kẻ không ý thức, những kẻ cố tình gây nạn cho người khác, và đó chính là những kẻ phóng nhanh vượt ẩu làm mối đe dọa cho người tham gia giao thông. Còn đối với giao thông học đường nói riêng chấn chỉnh giao thông học đường, cần cả xã hội chung tay. Sự đồng thuận giữa gia đình, nhà trường và xã hội không chỉ được thể hiện bằng văn bản, giấy tờ, những lời hứa suông… mà phải bằng hành động cụ thể.

Người viết đã đưa ra những dẫn chứng từ thực trạng nền giao thông đang diễn biến ngày càng phức tạp với rất nhiều những bất cập đáng lo ngại. Đó là những dẫn chứng cụ thể và tương đối tiêu biểu.

4. Bình luận

– Là bàn bạc, đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng; chỉ ra sự đúng – sai, phải – trái, tốt – xấu, lợi – hại… để nhận thức đối tượng, có cách ứng xử phù hợp, phương châm hành động đúng. Đây là thao tác có tính chất tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn chứng minh nhằm mở rộng, nâng cao vấn đề. Việc bình luận phải dựa trên sự nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan; có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng.

Bằng thao tác bình luận, người viết thể hiện ý kiến của mình đối với vấn đề xã hội được đưa ra nghị luận: đồng ý hay không đồng ý; đồng ý ở những nội dung, khía cạnh nào; sau đó, bình luận – mở rộng vấn đề sâu hơn, toàn diện và triệt để hơn. Cuối cùng, cần chỉ ra phương hướng vận dụng vào cuộc sống, chỉ ra ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với bản thân và đời sống xã hội.

Trong khi thực hiện thao tác bình luận, người viết cần phải linh hoạt, tránh cái nhìn phiến diện, một chiều. Bằng vốn tri thức, vốn sống của bản thân, cần phải đưa ra những cách nhìn nhận đúng đắn, bằng lập luận, lí lẽ và dẫn chứng, lôi cuốn, thuyết phục mọi người.

Đặc biệt, vì đây là kiểu bài nghị luận xã hội nên việc bàn luận, mở rộng dựa trên những ý nghĩa xã hội thực tiễn cũng như vận dụng vào trong đời sống hàng ngày là không thể thiếu. Người viết cần phải trang bị cho mình vốn kiến thức phong phú về đời sống, vốn hiểu biết về xã hội, về các tư tưởng đạo lí… Bnà luận mở rộng vấn đề cần tập trung, tránh đi vào những vấn đề không cần thiết hoặc ít liên quan dẫn đến lạc đề, xa đề.

Ví dụ minh họa: Phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa câu nói: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông (Nguyễn Bá Học).

Là học sinh, chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ và bổn phận của mình, luôn tự nhắc nhở bản thân:

Không có việc gì khó

Chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và lấp biển

Quyết chí ắt làm nên.

Và đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông.

Nói như vậy có nghĩa là, nhiệm vụ chính của chúng ta là học tập, sẽ không có lí do gì để chúng ta không cố gắng học tốt. Chỉ có tích cực trau dồi kiến thức, mỗi người trẻ tuổi mới có thể trở thành những chủ nhân có ích cho đất nước. Đứng trước một bài tập khó hay trước những phút lười biếng, hãy nhớ đến câu nói của thầy Nguyễn Bá Học để vượt qua, để vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Chúng ta là những con người hạnh phúc bởi đang được sống trong thời hòa bình và phát triển. Chúng ta được học tập, vui chơi, được tự do mơ ước mà không phải “xếp vào ba lô mọi ước mơ tươi đẹp nhất… mà đáng giặc”. Vì vậy, hãy cố gắng ở mức cao nhất để trở thành những con người ưu tú, có ích cho cộng đồng.

Đoạn văn bàn luận, mở rộng vấn đề bằng việc liên hệ với thế hệ trẻ, với chính bản thân mình.

5. So sánh

Làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong mối tương quan với đối tượng khác.

Cách so sánh: đặt đối tượng vào cùng một bình diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí, nêu rõ quan điểm, ý kiến của người viết.

Ví dụ minh họa: “Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, vào loại “con rồng nhỏ” có quan hệ khá chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Khắp nơi đều có quảng cáo, nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những nơi công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ đặt dưới chữ Triều Tiên to hơn ở phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bảng hiệu chữ Triều Tiên. Trong khi đó thì ở một vài thành phố của ta nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài lại lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như mình lạc sang một nước khác”.

(Chữ ta, bài Bản lĩnh Việt Nam của Hữu Thọ)

6. Bác bỏ

Là cách trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến được cho là sai.

Cách bác bỏ:

– Nêu ý kiến sai trái, sau đó phân tích, bác bỏ, khẳng định ý kiến đúng; nêu từng phần ý kiến sai rồi bác bỏ theo cách cuốn chiếu từng phần.

– Ý nhỏ phải nằm hoàn toàn trong phạm vi của ý lớn.

– Nếu có thể biểu hiện nội dung của các ý bằng những vòng tròn thì ý lớn và mỗi ý nhỏ được chia ra từ đó là hai vòng tròn lồng vào nhau, không được ở ngoài nhau, cũng không được trùng nhau hoặc cắt nhau.

– Mặt khác, các ý nhỏ được chia ra từ một ý lớn, khi hợp lại, phải cho ta một ý niệm tương đối đầy đủ về ý lớn, gần như các số hạng, khi cộng lại phải cho ta tổng số, hay vòng tròn lớn phải được lấp đầy bởi những vòng tròn nhỏ.

– Mối quan hệ giữa những ý nhỏ được chia ra từ cùng một ý lớn hơn phải ngang hàng nhau, không trùng lặp nhau.

Ví dụ minh họa: “Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả. Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?

Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?

Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?

Ở An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể ứng dụng nguyên tắc này:

Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”.

(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức. Theo SGK Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017, tr. 90)

Như đã nói ở trên, một bài văn nghị luận thường là sự kết hợp của nhiều thao tác lập luận, trong đó, tùy theo từng yêu cầu và vấn đề nghị luận nêu ra ở đề bài mà lựa chọn và sử dụng thao tác nào là thao tác chính. Không thể sử dụng đơn độc một loại thao tác lập luận duy nhất, làm cho vấn đề trở nên thiếu thuyết phục, không thấu đáo. Viết văn nghị luận xã hội là thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá của mình về đối tượng nghị luận (thuộc lĩnh vực xã hội), nhằm nâng cao trình độ, năng lực, giúp người khác cũng hiểu và tin vào vấn đề. Không chỉ thế, người viết qua đó cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh giá vấn đề, đưa ra những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao hiểu biết và tiến bộ về các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Do đó, phải sử dụng kết hợp các thao tác lập luận để đi từ hiểu biết, nhận thức đến khám phá, và cuối cùng là bàn luận, đánh giá về vấn đề, liên hệ với bản thân và đời sống. Việc vận dụng một cách linh hoạt các thao tác lập luận sẽ khiến cho vấn đề xã hội nghị luận được nhìn nhận một cách đầy đủ, sâu sắc hơn, mang tính thuyết phục cao hơn, hấp dẫn người đọc, người nghe.