BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử mở ra một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, đồng thời phản ánh tâm trạng cô đơn, khao khát của thi nhân. Từ cảnh sắc hữu tình đến nỗi lòng sâu thẳm, bài thơ mang đến những cảm xúc chân thành và đầy chất thơ.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

- Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

* Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

- Câu hỏi có hai cách hiểu:

  • Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
  • Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

* Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

- Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

- Điệp ngữ: “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

* Câu 3:

- Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

- “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

- Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

- Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

* Câu 5 và câu 6:

- Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

- Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

- Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

* Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

3. Tâm trạng của nhà thơ

- Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

- Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

III. Kết bài

- Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc nâng cao

Mẫu số 1

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời. Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh hằng. Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn “rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

………………………………

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong dó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh…”. Sự nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Vườn thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi nhân yêu đời da diết mà phải vĩnh viễn rời xa cuộc đời bởi bi kịch éo le và vô vọng.

Tại trại phong Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã nhận được tấm bưu ảnh chụp cảnh bến Vĩ Dạ cùng lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. Chính bức ảnh cùng lời hỏi thăm đó đã gợi lên trong lòng nhà thơ kỉ niệm về một miền quê và người con gái trong mối tình đơn phương, cũng bởi vậy mà mỗi vần thơ thấm đượm nỗi buồn sâu sắc. Thôn Vĩ Dạ là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương, đây là nơi nghỉ ngơi của những quan lại, viên chức về hưu hưu nên cuộc sống nơi đây vô cùng bình yên, no đủ và thơ mộng với những vườn cây xum xuê, những ngôi nhà xinh xắn,… Từ xa xưa Vĩ Dạ đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc xứ Huế:

“Du khách bảo đây vườn kín đáo

Đây xứ mơ màng đây xứ thơ”

Hay nhà thơ Bích Khê đã từng viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc tre cần chúc không buồn mà say”

Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ vốn là đặc trưng của “Thơ điên” với những “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau). Hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)… Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, “vô kỉ luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi mắt mờ lệ”. Dường như Hàn Mặc Tử đưa ta từ cõi thực đến cõi mộng rồi chìm đắm vào hư vô lúc nào không hay.

Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe văng vẳng bên tai giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đại từ “anh” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng đó là sự phân thân của nhân vật trữ tình, thi nhân tự vấn lòng mình “sao lâu quá rồi mà chưa một lần về thăm thôn Vĩ?” như nhắc nhở đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Có người lại cho rằng đó là lời của Hoàng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng ẩn sau trong đó là lời trách móc “Thôn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”. Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. Chẳng phải vô tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn với “chưa về”. Nó dường như khép lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ đây thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng. Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình cảm một phía của Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc. Đó là dòng sông một bờ mà phía bờ đó lại xuất phát từ Hàn Mặc Tử:

“Dòng sông anh tự đặt

Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông trôi vào lãng quên

Nước trong như nước mắt

Điều chưa thấy mà sao đã mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ

Phía bờ kia quay mặt

Dòng sông anh không qua được bao giờ”

Câu hỏi mở đầu mang nhiều sắc thái khác nhau, hỏi để mà trách nhưng lời trách thân mật, đáng yêu. Trách để mời mọc, để tiếc nuối. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào chữ “Vĩ” ở cuối cùng khiến cho nỗi buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về cảnh và về người thôn Vĩ. Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại vẻ đẹp thi vị, nên thơ của thôn Vĩ Dạ.

Bắt đầu bằng câu hỏi đầy ẩn ý đã giúp nhà thơ mở ra khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ tinh khôi, sống động, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao… Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là “chốn nước non thanh tú”. Nhắc đến Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh hàng cau, nó mang vẻ đẹp rất đặc trưng của nhà vườn xứ Huế. Cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam – nơi có tập tùng ăn trầu từ ngàn đời. Nguyễn Bính đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau quen thuộc:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”

Bởi lẽ là loài cây cao nhất trong vườn Vĩ Dạ, cau được đón những tia nắng đầu tiên trong một ngày mới tràn đầy sức sống. Thơ Mới thường đem đến cho người đọc những cấu tứ, thi liệu mới mẻ. Ta đã bắt gặp trên diễn đàn thơ Mới nhiều màu nắng lạ, đó là cái nắng chang chang trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử:

“Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

hay “Nắng trở chiều” trong thơ Xuân Diệu:

“Con đường nhỏ nhỏ nắng xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

còn ở đây ta lại bắt gặp hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”. Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong ánh bình minh. Đó không phải là ánh nắng nhạt buồn của hoàng hôn hay ánh nắng chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ, trong sáng và tinh khôi của buổi sớm mai làm ta liên tưởng đến câu thơ của Hồng Nguyên: “Có nắng chiếu đột kích mấy hàng cau”. Chi tiết ấy không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo, tươi tắn mà còn mở ra không gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai mà còn là khoảnh khắc diệu kì khi làn sương mỏng trên lá cau chưa kịp từ biệt sau một đêm dài thì thi nhân đã bắt gặp những tia nắng ban mai tổ điểm, đó là nắng ướt, nắng tươi, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Cây cau xuất hiện trong vườn thôn Vĩ như cây thước của thiên nhiên để đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng trong vườn”. Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên xứ Huế thi nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy vào tâm trí mình. Nắng dường như làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ những kí ức không thể nào phai. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”, bước vào thơ Hàn ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt sắc đến cực tả của thiên nhiên cũng như con người. Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển điểm nhìn từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy một màu xanh lá, khu vườn ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đôi mắt của thi nhân:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như một tiếng reo vui đầy thích thú thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Câu thơ sử dụng một loạt các từ trong cùng một trường từ vựng: “mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh non tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một đêm những chiếc lá cây được sương đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây bỗng bừng sáng lung linh. Tác giả khéo léo sử dụng từ cảm thán “quá” – không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp thanh sạch của cây lá, nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộc cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ, cùng với đó việc dùng tính từ “mướt” chứ không phải là “mượt” vì tính từ ấy ngoài chỉ sự nhẵn bóng còn gợi vẻ óng ả, mỡ màng. Hai thanh trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng mạnh về một tiếng reo, một cảm xúc bồng bột không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn được miêu tả qua phép so sánh độc đáo “xanh như ngọc” – đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng hóa đối tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ hiện lên như một viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh sáng. Dường như trong thơ Hàn rất ưa dùng những vật liệu cao sang nhất là giai đoạn cuối đời. Các trang thơ đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược… đặc biệt là ngọc được so sánh ở mức tuyệt đối:

“Đức tin thơm hơn ngọc

Thơ bay rồi thơ bay”

hay:

“Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc

Cả một mùa xuân đã hiện hình”

Nói về màu xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”

Sau này Nguyễn Tuân cũng dùng màu xanh ấy để nói về màu nước của con sông Đà vào mùa xuân. Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào mà chẳng đẹp, vườn nào mà chẳng tươi nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân say đắm như vậy chỉ có thể là vườn của người mình thương, mình nhớ. Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm chủ nhân khu vườn mà chỉ là cách thể hiện niềm vui sướng, niềm bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là trong tưởng tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả câu thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới khác, thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình nữa… Cuối cùng Hàn Mặc Tử khép lại khổ thơ bằng một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật độc đáo, thơ mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người có khuôn mặt vuông vắn, đầy đắn ứng với đức tính thật thà, phúc hậu, Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tô điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo, duyên dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Song có lẽ đây là câu thơ gây nhiều tranh cãi bởi khuôn mặt chữ điền kia là đàn ông hay phụ nữ? lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Dường như vườn thơ Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… bởi lẽ những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt hiểu, nhiều tầng nghĩa và cũng có nhiều cách hiểu. Có người cho rằng đó là khuôn mặt đôn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho rằng đó là khung cửa sổ, là cổng nhà quý phái hay đặc biệt hơn cả đó chính là khuôn mặt của tác giả. Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu… thường là hình bóng tự họa của Tử, mà Tử vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh:

“Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó

Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”

Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, “kẻ đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa lạ”, là kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là sản phẩm của mặc cảm chia lìa?

Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn Mặc Tử, để rồi khi tác giả chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thôn Vĩ bởi chứng bệnh nan y như đang vẫy gọi án tử hình. Cũng vì vậy bài thơ đã có sự chuyển ý, “bật cóc” rất nhanh từ cảnh sắc vui tươi đã chuyển sang đau thương u hoài:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Cái lối chuyển tứ nhanh, có khi rất xa, có khi rất kì lạ song đó là một đặc điểm của thơ Hàn và khi “những đột xuất ấy lặp đi lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu” (Vũ Quân Phương), quả thực là như vậy. Bốn câu thơ khổ hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một, cả khu vườn hay khuôn mặt chữ điền kia cũng không hề được nhắc lại. Cảnh bây giờ đã hoàn toàn khác, nhưng cái tâm trạng vẫn một xa cách, vẫn một vắng vẻ. Thấm đượm trong lời thơ là cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi như ngắt câu thơ làm hai nửa, âm điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi buồn hiu hắt cùng thi nhân, câu thơ khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Thế Lữ:

“Anh đi đường anh tôi đường tôi

Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi.”

Nhưng nếu như Thế Lữ nói trực tiếp lời nhân vật trữ tình thì Hàn Mặc Tử lại mượn hình ảnh để nói lên tiếng lòng. Dường như cảnh vật đang bắt đầu chia lìa, gió và mây đều có đường đi riêng cũng giống như sự chia li của mối tình đơn phương, vô vọng sớm muộn cũng tàn. Điệp từ “gió” và “mây” đã càng tô đậm sự chia lìa ấy. Gió thổi mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một nẻo. Những hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc độ của mây mà là để tạo ra một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ xa cách. Nỗi đau đến tốt cũng đã thấm đượm vào cả không gian khiến cho dòng nước sông Hương cũng nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như không trôi chảy, vừa gợi như làm ngưng đọng nỗi buồn. Thêm vào đó là động thái “lay” của hoa bắp chính là một nét buồn phụ họa vào khung cảnh bởi bản thân nó vốn dĩ chẳng mang nghĩa buồn hay không vui, ta cảm thấy dường như thật nhẹ nhàng, thật buồn. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã gợi lại nỗi buồn đến tê tái, thiên nhiên Huế vốn được ban tặng vẻ đẹp bình lặng, trầm tư mà giờ đây sàng lọc qua tâm hồn Hàn Mặc Tử đã trở thành nỗi buồn sâu tận đáy lòng. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử:

“Ai về giồng dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”

Có phải chữ “lay” ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông:

“Lá ngô lay ở bờ sông

Bờ sông vẫn gió người không thấy về”

Hàn Mặc Tử nhìn thấy hoa bắp lay như nhận ra sự phiêu tán, chia lia. Tất cả gió, mây, dòng nước đều đang lưu chuyển, đều đang rời bỏ chốn này mà đi hết và bỏ rơi lại hoa bắp. Chỉ còn một mình, nó đang cố lay động như một sự níu giữ, một lưu luyến trong vô vọng của kẻ bị chia lìa.

Nếu cõi thực của kí ức trong khổ 1 thật trong trẻo, tươi tắn và rực rỡ với ánh nắng ban mai ấm áp thì đến khổ hai đã tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như thực, như mơ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. Hàn rất mê trăng, nó đã đi vào vườn thơ ông thật ám ảnh như một nhân vật huyền thoại, như một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu du, thoát tục:

“Trăng nằm sóng sỏai trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

hay:

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Còn ở đây Hàn Mặc Tử đã gợi ra một hình ảnh thật lạ, đó là một thế giới huyền diệu, nơi ấy có con thuyền chở trăng và có một bến sông trăng. Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng, thuyền mới chở được đầy trăng, đúng như lời nhận xét của Bích Khê: “Hàn Mặc Tử co con mắt rất mơ, rất ảo nhìn vào sự thực thì hóa sự thực hóa thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại biến thành huyền diệu”. Câu thơ của Hàn làm ta nhớ tới câu thơ rất mực tao nhã, phong lưu của Nguyễn Công Trứ:

“Gió trăng chứa một thuyền đầy

Củi kho vô hạn biết ngày nào vơi”

Cách diễn đạt phiếm chỉ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác bóng tối lạnh lẽo như bao trùm lên dòng sông, lên cảnh vật, thi sĩ như khát khao có con thuyền chở trăng về, phải chăng là để chở những khát khao hy vọng đến khắc khoải về một sự gặp gỡ và hòa hợp? Chữ “kịp” trong câu thơ thứ 2 càng thấm thía nỗi tiếc nuối, xót xa, lo sợ khi luôn biết rằng chẳng bao giờ kịp nữa nhưng ông vẫn cố hỏi khiến tâm trạng trở nên bồn chồn, chua xót, bất lực. Hỏi chỉ để tiếc, để tự dày vò bản thân mình mà thôi. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương:

“Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết,?

Sao bông phượng nở trong màu huyết,

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”

Cụm từ “tối nay” càng làm thi nhân thêm khắc khoải bởi khi tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, “tối nay” lại mang ý nghĩa xác định khiến quỹ thời gian vốn ngắn ngủi nay lại càng ngắn ngủi. Chỉ có “tối nay”, chỉ còn “tối nay” nữa mà thôi, dường như với Hàn, sống là chạy đua với thời gian. Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời gian để sống tận hưởng và tận hiến hết mình, ông chỉ sợ thời gian cướp đi tuổi trẻ cũng như tình yêu thì ở Hàn Mặc Tử đang đứng ở giữa hai bờ sinh tử, lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng bởi vậy gã lo sợ từng khắc từng giờ sẽ sớm vĩnh viễn rời xa cõi đời. Trong cảnh ngộ ấy, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong mơ hồ. “Thơ là sự lên tiếng của thân phận”, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.

Đọc thơ Hàn Mặc Tử đôi khi khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Lamartine, tứ thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc phát ngẫu, cõi lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào trong cõi sương mù bởi vậy cảnh trí ngoại giới được tái hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn đó chính là kiểu thơ “Phong cảnh nội tâm” như trong bài “Tình hồ” có viết:

“Dưới đá sâu lòng hồ gào thét

Tự vỗ mình đau xiết tâm can

Gió xua bọt sóng miên man

Trên đôi chân đẹp của nàng dấu yêu.”

Thơ Hàn cũng vậy, mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu thơ đang bồng bềnh phút chốc như trở nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Khi không còn ánh nắng ấm áp, cũng không còn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa người đọc tới một cõi xa xăm, không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng ảo. Màu sắc, âm thanh, đường nét đều mờ nhòa, chỉ còn một bóng hình ai đó đang chập chờn xuất hiện, phải chăng đó là hình bóng xa xôi của một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào… Chữ “mơ” đầu câu thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn được cảm nhận, gần gũi với những hình bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế câu như tái hiện hình ảnh con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc nuối mà vô vọng của thi nhân. Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng “em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây là hình ảnh thường trực trong cõi lòng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là khoảng cách thời gian cùng màn khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự mặc cảm tự ti trong tình yêu:

“Em lớn quá làm sao anh giữ nổi

Nên lúc nào em muốn cứ xa anh!”

(Sechxpia)

Dường như bóng dáng em xa khuất chỉ còn đọng lại sắc áo trắng – một vẻ đẹp thánh thiện, tinh khôi đúng như Huy Cận từng viết:

“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,

Hôm xưa em đến, mắt như lòng.”

Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc trắng trong câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” ở độ tuyệt đối, tột cùng. Nó choáng cả không gian làm lập lòe cả thị giác. Ta dễ thường thấy trong thơ Tử hình bóng giai nhân bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ đẹp trinh khiết xuân tình và gắn vào làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, đôi lúc khiến câu thơ trở nên kì quặc: “chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Câu thơ của Hàn làm ta liên tưởng tới màu trắng trong thơ Xuân Quỳnh khi thi sĩ cảm thấy thời khắc xa cách cuộc đời đã đến gần:

“Người ta khuyên lúc này đừng suy nghĩ

Mà cũng đừng xúc động, lo âu.

Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu

Dường trong suốt một màu vô tận trắng.”

Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng khuâng, Hàn như bất lực trước cuộc đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt được rồi lại tuột ra khỏi tay…

Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại, Hàn Mặc Tử cũng vậy, ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng muốn chút nào, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mờ mịt chẳng biết tương lai ngày mai ra sao:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai không gian hoàn toàn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ đang sống, là không gian nghiệt ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa một lãnh cung nơi không có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người cung nữ nhớ thương vua”. Không gian ấy bây giờ chìm trong sương khói mông lung, lạnh lẽo của xứ Huế buồn lắm nắng, nhiều mưa. Dường như bóng dáng của người đang dần nhòa mờ “nhân ảnh” làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều:

“Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day dứt với một câu hỏi:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của một con người tha thiết mê đắm với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và khắc khoải tìm kiếm sự đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến hai lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến mối giao cảm của nhà thơ với người con gái xứ Huế. Chẳng biết thôn Vĩ có hiểu cho mối tình đơn phương mà tha thiết đó không? Chẳng hay người thôn Vĩ có tình cảm đậm đà với mình không? Đó là câu hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu tha thiết như nữ sĩ Xuân Quỳnh đã từng viết:

“Anh có nghe hoa rơi

Quanh chỗ mình đứng đó

Hoa ơi sao chẳng nói

Anh ơi sao lặng thinh

Đốt lòng em câu hỏi:

Yêu em nhiều không anh?”

Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện được niềm khao khát của thi nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn nói dẫu vô vọng nhưng thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Biết bao ống kính thiên văn đua nhau chĩa về “ngôi sao chổi” kì lạ ấy, song tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Dù xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam vỏn vẹn 12 năm, song những gì ông để lại cho hậu thế là cả một vườn thơ “rộng không bờ, không bến, càng đi xa càng ớn lạnh”, càng thấy “nhọc” bởi lớp lớp tầng nghĩa của những vần thơ vẫn chưa được lật mở.

Mẫu số 2

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử, sáng tác vào năm 1938 và lần đầu được in trong tập Thơ điên. Khi sáng tác bài thơ này, Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn bệnh tật nghiêm trọng, cơ thể và tinh thần đều chịu nhiều đau đớn. Tuy nhiên, qua tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta không cảm nhận được nỗi đau đó, mà thay vào đó là một giọng thơ dịu dàng, tràn đầy khát khao yêu thương. Bệnh tật dường như không thể làm lay chuyển tâm hồn ông. Bài thơ sử dụng những hình ảnh giàu sức biểu hiện, ngôn từ tinh tế, giàu tính gợi, tạo nên một bức tranh tươi đẹp về làng quê Việt Nam, đồng thời truyền tải tình yêu đời, yêu người tha thiết của Hàn Mặc Tử.

Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn ở thôn Vĩ Dạ. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi vừa như lời trách cứ nhưng lại nhẹ nhàng, dịu ngọt như một lời mời. Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo, uyển chuyển, ngọt ngào như nét duyên của người con gái. Qua lời mời gọi dịu dàng, tác giả đưa ta đến với một bức tranh thiên nhiên nhiên tuyệt mĩ của thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Thôn Vĩ Dạ là một ngôi làng bình yên, thơ mộng nằm ven sông Hương, gần thành phố Huế. Dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử, vẻ đẹp của thôn Vĩ hiện lên lung linh, trở thành một điểm nhấn quyến rũ của thiên nhiên. Khi bước vào bức tranh thôn Vĩ, hình ảnh đầu tiên mà ta thấy chính là “hàng cau”. Nhà thơ nhắc đến cau trước hết vì đây là loài cây thanh tao, thẳng tắp, biểu tượng cho sự kiên trung và thủy chung. Những hàng cau ngay ngắn, chuẩn mực tạo ra một vẻ đẹp hài hòa, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Vẻ đẹp của hàng cau càng được tôn thêm bởi ánh “nắng hàng cau”, “nắng mới lên”. Nắng lấp lánh trên những hàng cau như kéo dài từng tia sáng, bao phủ khắp không gian làng quê. Từ “nắng” lặp lại hai lần, khiến ta cảm nhận được sự ấm áp và sức sống tràn ngập khắp nơi. Đến câu thơ thứ ba, sự ngạc nhiên tươi mới bật lên: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Thiên nhiên không chỉ tràn đầy ánh vàng của nắng, mà còn có màu xanh mát rượi của cỏ cây hoa lá. Từ “mướt quá” gợi nên sự xanh tốt, tươi tắn của khu vườn, làm cho lòng người dịu đi, trong trẻo hơn. Màu xanh ấy, khi được ví với “ngọc”, lại càng trở nên cao quý, thuần khiết, không vương chút bụi trần. Câu thơ còn thoáng qua hình bóng ai đó, với “vườn ai” vẫn còn đầy ẩn ý, và đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh ấy sẽ dần rõ nét hơn.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Hình ảnh con người xuất hiện làm cho cảnh vật trở nên sống động hơn. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong khu vườn xanh mát, hiện ra thấp thoáng một gương mặt “chữ điền” phúc hậu, vừa rõ ràng vừa mơ hồ, gần gũi mà lại xa xăm bởi “lá trúc che ngang”. Gương mặt ấy như đang lặng lẽ quan sát người khách, nhưng với sự dịu dàng, e thẹn. Câu thơ đẹp nhờ sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Chỉ với vài nét đơn giản, Hàn Mặc Tử đã khắc họa cảnh vật và con người thôn Vĩ Dạ một cách sinh động, vừa thân thuộc vừa đầy chất thơ. Đoạn thơ khơi gợi trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng, những hoài niệm về quê hương thân yêu.

Khổ thơ thứ hai cho ta thấy một thế giới khác của Huế, một sự chuyển biến hoàn toàn về tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng ta dường như ta thấy nặng trĩu tâm tình. Hai câu thơ gợi cảnh chia li sầu não buồn đến não nề. Gió thổi mây bay thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Còn nữa, hoa rơi nước chảy còn sự việc nào vô tình hơn? Phải chăng là một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ yêu thương đã sớm chia li buồn tủi nên cảnh mới hòa vào lòng người mà sầu khổ, phân li. Điệp từ “gió” và “mây” càng nhấn mạnh thêm khoảng cách, sự xa cách. Hai câu thơ mang một nhịp điệu rất Huế, êm đềm, lững lờ mà trầm tư, man mác buồn.

Đặc biệt viết về Huế không thể thiếu ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Hình ảnh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Ẩn dụ của tác giả thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng có thể không? “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi vô vọng không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng phập phồng.

Khổ thơ cuối có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” không chỉ thể hiện nỗi nhớ nhung da diết mà còn gợi lên sự vô vọng của một mối tình đơn phương xa vời. Ở thực tại, tác giả đang đối mặt với căn bệnh nghiêm trọng, khiến mọi liên lạc với thế giới bên ngoài bị cắt đứt, vì vậy qua câu thơ, ta cảm nhận được ước mơ mãnh liệt của ông. Lúc này, tác giả không còn mơ được trở về thôn Vĩ, mà chỉ hy vọng có một người khách nào đó ghé thăm. Nhưng giấc mơ ấy dần phai nhạt: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Tác giả tưởng tượng về một người con gái, nhưng chỉ nhận thấy “áo” mà “không nhìn ra” gương mặt. Hình ảnh này vừa gần gũi lại vừa xa cách. Gần gũi vì nó là một ký ức khắc sâu, nhưng xa vời vì bị ngăn cách bởi thời gian và không gian. Hình ảnh chiếc áo trắng còn gợi nhớ đến những nữ sinh Huế trong tà áo dài, tạo nên nét thanh khiết và giúp ta dễ hình dung về người con gái trong giấc mơ của tác giả.

Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Ở nơi tình cảm chỉ mờ như sương khói, cái tha thiết mong đợi của tác giả như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng vẫn để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ mà con là nỗi lòng của một con người với những tâm sự sâu lắng, với những khát khao yêu đời, yêu người. Hiện nay, theo nhiều đánh giá, bài thơ xứng đáng được xếp vào một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.

Mẫu số 3

Xuất hiện trên đời như một ngôi sao băng ngắn ngủi, nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại cho nền thơ ca Việt Nam những giá trị vô cùng to lớn. Thơ ông chứa đựng tình yêu mãnh liệt với cuộc sống, với những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo của một con người đứng trên ngưỡng cửa của cái chết. Thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ giúp chúng ta thêm yêu đời, yêu cuộc sống, mà còn mang đến những cảm nhận nghệ thuật mới lạ. Các tác phẩm của ông vẫn tiếp tục sống mãi trong dòng chảy của phong trào Thơ mới và nền văn học qua các thời đại, tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ".

Hàn Mặc Tử, quê ở Quảng Bình, sinh ra trong một gia đình viên chức nghèo, mất cha từ sớm. Ông có tuổi thơ phiêu bạt, sống ở nhiều nơi. Dù cuộc đời ngắn ngủi, nhưng với tài năng sáng tạo, ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, với những vần thơ đầy khát khao sống. Nhà thơ Huy Cận từng nhận xét: "Theo tôi, thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại rất nhiều. Ông là người có tài, đóng góp xứng đáng cho Thơ mới". Một số tác phẩm nổi bật của ông như Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý...

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" nằm trong tập Thơ Điên, lấy cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái ở thôn Vĩ, một làng nhỏ ven sông Hương. Lê Thị Hồ Quang nhận xét: "Rõ ràng có một thế giới thiên nhiên rất thực đã và đang tồn tại trong 'Đây thôn Vĩ Dạ'. Đó là thế giới của 'vườn ai mướt quá', của 'lá trúc che ngang' và 'thuyền ai đậu bến sông trăng đó' đầy tình tứ. Thế giới ấy xôn xao trong ánh sáng và sắc màu nhưng lại gợi lên sắc thái cổ điển. Mỗi hình ảnh, mỗi sự vật đều nổi bật trong những hình vẽ rõ ràng, nhưng đồng thời như bị nhòe mờ bởi một làn sương khói mông lung, vô tình hay hữu ý. Những 'nắng', những 'vườn', 'con thuyền' và 'vầng trăng' tất cả đã tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống trong tâm trí Hàn Mặc Tử, khi ông đang ở trong một hoàn cảnh bi kịch, bị gạt khỏi guồng quay của cuộc đời, chỉ có thể ngưỡng mộ và khao khát từ xa".

"Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Mở đầu tác phẩm chính là câu hỏi tu từ "sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Câu hỏi ấy như là một lời trách cứ nhẹ nhàng nhưng cũng như một lời mời nhẹ nhàng. Đó có thể là câu hỏi của người ở thôn Vĩ những cũng có thể là câu hỏi mà chính tác giả đang tự hỏi bản thân.

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

Những câu thơ tiếp theo mở ra một bức tranh thôn Vĩ đầy thơ mộng và quyến rũ. Thôn Vĩ Dạ là một ngôi làng nhỏ nằm ở ngoại ô của thành phố Huế thơ mộng. Dưới ngòi bút tinh tế của Hàn Mặc Tử, vẻ đẹp của thôn Vĩ hiện lên lung linh, như một điểm nhấn nổi bật của thiên nhiên. Khi đến với thôn Vĩ, hình ảnh đầu tiên hiện ra là "hàng cau" trong ánh nắng ban mai. Hình ảnh cau biểu trưng cho sự thanh nhã và thủy chung, những hàng cau thẳng tắp tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, chuẩn mực, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Từ "nắng" lặp lại hai lần làm cho ta như cảm nhận được ánh sáng lan tỏa khắp nơi, thổi bừng sức sống cho cả thôn Vĩ.

Câu thơ thứ ba như một nét chấm phá bất ngờ, bức tranh thiên nhiên không chỉ tràn ngập ánh sáng mà còn ngập tràn màu xanh mát lành, căng tràn sức sống. Màu xanh ấy mang lại sự dịu dàng, làm cho tâm hồn ta trở nên nhẹ nhõm và tươi trẻ. Khi màu xanh được so sánh với "ngọc", bức tranh thiên nhiên càng trở nên thanh cao, thuần khiết hơn.

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Hình bóng con người hiện lên giữa khung cảnh thiên nhiên khiến cho bức tranh càng trở lên sinh động. Thấp thoáng sau khu vườn xanh mướt lá là một khuôn mặt chữ điền phúc hậu vừa thực vừa ảo. Gương mặt trong câu thơ như đang dõi theo người khách, dịu dàng, e ấp. Chỉ với vài câu thơ ngắn nhưng Hàn Mặc Tử đã phác họa được cảnh vật và con người ở thôn Vĩ một cách sinh động. Đoạn thơ chính là những tâm sự trong lòng thi nhân.

Nếu như khổ thơ thứ nhất cho ta thấy được bức tranh thiên nhiên thơ mộng của xứ Huế. Thì đến với khổ thơ thứ hai, chúng ta thấy được một thế giới khác của Huế, đó là sự chuyển biến hoàn toàn về tâm trạng của nhân vật trữ tình:

"Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"

Hai câu thơ gợi tả sự chia ly. Gió với mây thường là những hình ảnh song hành nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử lại khác "gió theo lối gió, mây đường mây". Phải chăng đó là kết quả của mối tình đơn phương chưa một lần gặp gỡ đã phải chia xa. Điệp từ "gió" và "mây" càng nhấn mạnh thêm khoảng cách. Hai câu thơ mang một nét êm đềm, trầm tư, man mác buồn.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay"

Ta có thể thấy trăng là hình ảnh được xuất hiện trong rất nhiều các tác phẩm nghệ thuật. Trăng chính là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc, có lẽ chính vì vậy mà khi đứng trước trăng, ai cũng muốn bộc lộ hết tấm lòng của mình. Hình ảnh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho người đọc một niềm tin, niềm hi vọng. Hình ảnh ẩn dụ của tác giả khiến cho ta niềm khao khát đợi chờ. "Có chở trăng về kịp tối nay" câu hỏi đó không bao giờ có đáp án, câu thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng cũng thể hiện nỗi lo lắng.

Khổ thơ cuối chính là sự thức tỉnh của nhà thơ, trở về với thực tại:

"Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra"

Điệp ngữ "khách đường xa" thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải nhưng cũng là sự vô vọng của mối tình đơn phương. Tác giả trở về thực tại đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, tách biệt với thế giới loài người. Tác giả không mơ được về thăm thôn Vĩ mà mong muốn có một người tới thăm. Nhưng giấc mơ ấy thật mờ nhòe "nhìn không ra". Tác giả mơ về một người con gái nhưng chỉ thấy áo chứ nhìn không ra. Tác giả chỉ biết đó là hình ảnh gần gũi, thân thuộc, nó đã ăn vào tiềm thức. Câu thơ nhắc tới chiếc áo trắng gọi cho ta nghĩ đến hình ảnh những nữ sinh Huế mặc chiếc áo dài trắng thướt tha.

Trong nỗi nhớ, nỗi buồn bã cô đơn, nhà thơ khát khao được sống đến tột cùng:

" Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà"

Trong khoảnh khắc tình cảm mơ hồ, sự khát khao và chờ đợi của tác giả như đọng lại ở câu thơ "ai biết tình ai có đậm đà". Đại từ phiếm chỉ "ai" vừa thể hiện sự hoài nghi, vừa là tiếng thở dài đầy vô vọng.

Khi sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đang trải qua giai đoạn bệnh tật hành hạ, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tuy vậy, khi đọc tác phẩm, ta không cảm nhận được sự u ám của một người sắp rời bỏ cuộc sống, mà trái lại, bài thơ hiện lên với những hình ảnh nhẹ nhàng, một tâm hồn khao khát yêu thương và yêu cuộc đời. Thông qua những hình ảnh biểu đạt nội tâm, cách gợi tả và ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là bức tranh tuyệt đẹp về một miền quê Việt Nam mà còn là tiếng lòng tha thiết yêu đời, yêu người của tác giả.

Dù ra đời đã lâu, Đây thôn Vĩ Dạ vẫn chạm đến trái tim người đọc với nhiều cảm xúc sâu lắng. Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên rực rỡ mà còn ẩn chứa những tâm tư sâu kín, thể hiện khát khao sống mãnh liệt và tình yêu cuộc đời của tác giả.

Mẫu số 4

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, nổi bật với tài năng xuất sắc nhưng lại phải chịu đựng căn bệnh phong hiểm nghèo. Chính vì điều này, thơ của ông thường phản ánh hai thế giới đối lập: một bên là sự trong trẻo, tươi sáng, và bên kia là sự ma quái, kỳ bí. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, được viết vào năm 1938 và nằm trong tập Thơ Điên, là một tác phẩm nổi tiếng của ông. Bài thơ vẽ nên bức tranh thôn quê Vĩ Dạ yên bình và tươi đẹp, đồng thời lồng vào đó tình yêu tha thiết và niềm khao khát giao cảm với cuộc sống của Hàn Mặc Tử.

Cảm hứng cho Đây thôn Vĩ Dạ đến từ một tấm bưu thiếp mô tả cảnh vườn tược, sông nước, được cho là do Hoàng Cúc gửi cho ông. Tấm bưu ảnh ấy đã khơi gợi lại những kỷ niệm của Hàn Mặc Tử về Vĩ Dạ - một xóm nhỏ ven sông Hương, nơi ông từng trải qua tuổi học trò và giữ bóng hình người con gái ông yêu thương. Quan trọng hơn, nó đánh thức trong ông niềm khao khát được kết nối với cuộc đời, vào thời điểm ông đang ở Phú Yên và bị bệnh tật giày vò.

Có lẽ vì được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt như thế nên ngay đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã mở lời bằng một câu hỏi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Nghe câu thơ mà người ta như nghe được tiếng người thôn Vĩ đang hờn trách thi nhân, đang mời gọi thi nhân về với Vĩ Dạ. Thế nhưng, đây lại chỉ là một câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ, bởi ông đang sống trong nỗi nhung nhớ và niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử không phải đến thăm Vĩ Dạ mà là “về chơi”, bởi Vĩ Dạ là chốn thân thương, là nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn. Ông đã làm một cuộc hành trình bằng tâm tưởng để quay trở lại Vĩ Dạ, để ngắm:

“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nhà thơ say sưa trong cảnh vườn Vĩ Dạ, trong những khoảnh khắc yên bình, êm dịu của tâm hồn. Bức tranh Vĩ Dạ được miêu tả từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đểu rất thơ mộng và tràn trề sức sống. Điểm nhìn đầu tiên của nhà thơ bắt gặp là hình ảnh của nắng sớm trên những hàng cau.

“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”

Điệp từ “nắng” gợi lên một không gian tràn ngập sắc vàng rực rỡ của nắng mãi. Đó là thứ ánh nắng trong trẻo, tinh khôi của buổi sớm, đẹp đẽ và thật dịu dàng! Nắng trên hàng cau cũng là thứ ánh nắng rất đặc trưng của Vĩ Dạ bởi Vĩ Dạ vốn nổi tiếng với những vườn cau xanh mướt. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp luôn vươn mình đón ánh mặt trời, là loài cây đầu tiên đón ánh nắng mặt trời của Vĩ Dạ. Tả nắng hàng cau nhưng Hàn Mặc Tử dường như đã làm sống dậy cả một buổi ban mai tinh khôi và mát lành của xứ Huế mộng mơ.

Trong ánh nắng sớm tinh khôi ấy là hình ảnh của khu vườn xanh mát:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Chỉ là khu vườn của “ai” phiếm chỉ bởi đó là khu vườn sống trong tâm tưởng của nhà thơ. Cùng với tính từ “mướt” và lối so sánh “xanh như ngọc” đã khiến người đọc có thể cảm nhận được sự sống động, lung linh của khu vườn Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” được đặt trong câu thơ vô cùng tinh tế, nó đã gợi lên hình ảnh một vườn cây trái mỡ màng, tươi tốt, mơn mởn. Những cành cây, nhành lá còn đang vương những giọt sương đêm lóng lánh. Có lẽ vì thế mà Hàn Mặc Tử đã so sánh “xanh như ngọc”. Khu vườn đẫm sương đêm lại được mặt trời chiếu rọi lung linh như một khối ngọc khổng lồ. Lời thơ bay bổng không chỉ gợi lên hình ảnh của khu vườn mà còn gửi vào trong đó lời trầm trồ, ca ngợi của nhà thơ với cảnh vườn Vĩ Dạ.

Say sưa với cảnh vườn, nhưng càng say hơn là hình ảnh của:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ không phải lời tả thực mà là một nét vẽ cách điệu của thi nhân. Khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc, hòa cùng thiên nhiên, khiến cả khu vườn của Vĩ Dạ bỗng chốc trở nên ấm áp, có sinh khí đến lạ thường.

Nhà thơ để khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc che ngang gợi ra nét thẹn thùng, e ấp, nét kín đáo rất riêng của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt phúc hậu, được thi nhân lấy ý từ trong câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:

“Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”

Câu thơ mang đậm phong vị dân gian và hơn thế, nó còn gợi ra cả vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế.

Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh vườn tược xứ Huế thơ mộng, ấm áp và giàu sức sống. Đằng sau bức tranh đó là tâm hồn gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ của nhà thơ đồng thời là khát khao được giao cảm với cuộc đời. Sâu thẳm bên trong lời thơ là nỗi buồn khi nuối tiếc khi vẻ đẹp kia chỉ còn trong hoài niệm còn thi nhân thì đang phải cách biệt với cuộc đời. Đoạn thơ cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử khi ông mang vào thơ những hình ảnh và ngôn từ rất đỗi mộc mạc, giản dị, gần gũi.

Cảnh thôn Vĩ Dạ không hề tĩnh tại mà có sự chuyển động, từ cảnh vườn tược Vĩ Dạ chuyển sang cảnh sông nước mây trời:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Bức tranh mây trời nước phóng khoáng mở ra, khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng đúng như cái chất thơ của xứ Huế. Nhịp thơ chậm đều gợi lên sự yên bình, êm ả. Một dòng Hương giang đẹp đến tĩnh lặng dưới trăng trong đêm tịch mịch.

Hoà vào khung cảnh đó là tâm trạng của người thi nhân được gửi gắm kín đáo qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa để gió và mây trở thành hai nhân vật, nhưng không như thường lệ, hai nhân vật này lại bị chia cắt, mỗi người đi theo con đường riêng: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Đây có thể là một ẩn dụ cho mối tình đơn phương của nhà thơ trong sự xa cách vô tận và sự cách biệt do bệnh tật, khiến ông cảm thấy cô đơn và lẻ loi. Nỗi xót xa và buồn bã của ông đã lan tỏa đến cả cảnh vật, khiến cho gió và mây cũng mang theo nỗi buồn sâu thẳm.

Nỗi buồn này còn được phản ánh qua dòng sông Hương, chảy lững lờ. Nhìn dòng nước chảy trong tĩnh lặng, nhà thơ cảm nhận rằng “dòng nước” cũng trở nên “buồn thiu”. Nhân hóa dòng sông là cách để Hàn Mặc Tử bộc lộ tâm trạng của mình: một cái tôi cô đơn, lạc lõng giữa không gian rộng lớn, xung quanh chỉ có nước và hoa bắp lay động, tạo nên một cảm giác hiu hắt, cô quạnh.

Nỗi cô đơn của nhà thơ càng thêm thấm thía khi ông tự đặt mình giữa trời, trăng, sông, nước. Màn đêm tịch mịch, ánh trăng bạc lạnh lẽo, và sông nước mênh mông tạo nên một cảnh tượng ma quái, nhưng đó chính là nơi mà nhà thơ cảm thấy sự cô đơn tột cùng. Dù sống giữa cõi người, ông vẫn cảm thấy trống trải và cô đơn vì bị bệnh tật ngăn cách khỏi cuộc đời.

Vì sống trong cô đơn, khao khát lớn nhất của Hàn Mặc Tử là được kết nối với cuộc sống, mong chờ tình người có thể xoa dịu nỗi đau. Vì vậy, bóng dáng “thuyền ai” của sự sống con người hiện lên, và nhà thơ không ngừng kêu gọi với hy vọng tìm thấy sự đồng cảm.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Những nỗi mong mỏi ấy nhanh chóng dẫn đến sự thất vọng, không có ai đáp lại tiếng gọi của thi nhân. Chính vì vậy, nhà thơ khao khát “chở trăng về kịp tối nay”. Trong đêm tối, khi sự cô đơn và lạnh lẽo bao trùm, trăng trở thành một nguồn an ủi duy nhất có thể xoa dịu nỗi cô đơn của ông. Trăng từ lâu đã là người bạn tri kỷ, nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, và Hàn Mặc Tử cũng không phải là ngoại lệ. Ông yêu trăng một cách sâu sắc!

Đoạn thơ thứ hai thể hiện sự kế thừa và phát triển từ thơ ca truyền thống, vẫn giữ thể thơ thất ngôn, nhưng đồng thời cho thấy nỗ lực đổi mới của nhà thơ với việc đưa vào những hình ảnh giản dị và sử dụng ngôn từ mộc mạc, như những lời thốt ra từ trái tim.

Khổ thơ cuối cùng cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa”

Câu thơ khuyết chủ ngữ và không hề tuân theo ngữ pháp thông thường bởi nhà thơ muốn nhập hoà giữa chủ thể và khách thể. Khao khát được trở về Vĩ Dạ nên nhà thơ đã mơ mình được làm khách đường xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 nhanh dồn dập cũng điệp từ “khách đường xa”, người đọc như cảm thấy được tiếng reo vui náo nức của nhà thơ. Bởi vậy mới biết Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào!

Trở về Vĩ Dạ để được đắm mình trong tình người, trong cảnh sắc của Vĩ Dạ:

“Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

Một Vĩ Dạ với sương khói bảng lảng, với những bóng áo dài thấp thoáng duyên dáng, thướt tha của những nữ sinh trường Đồng Khánh đã in dấu vào tâm hồn thi nhân, để mỗi khi nhớ về Vĩ Dạ, những hình ảnh ấy lại hiện lên thật rõ ràng.

Nhà thơ trở về Vĩ Dạ là mong được sống trong tình người ấm áp, sống trong cảnh vườn quê yên bình, thế nhưng ông chỉ thấy bóng áo “trắng quá” đến mức “nhìn không ra”. Sương khói đã làm mờ đi hình người, mờ đi nhân dạng, vì thế mà:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Sương khói đã làm mờ nhòe hình ảnh con người, thì làm sao có thể thấu hiểu được lòng người nữa, làm sao biết được “tình ai có đậm đà” như trước? Hàn Mặc Tử lại rơi vào trạng thái hụt hẫng, chơi vơi. Ông cảm thấy bất lực trước cuộc đời, đau đớn vì không còn khả năng giao tiếp hay hòa nhập với thế gian, bị cô lập bởi bệnh tật.

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi và kết thúc cũng với một câu hỏi. Nếu câu hỏi ở đầu bài thơ đầy tình cảm yêu thương thì câu hỏi cuối cùng lại chất chứa sự hoài nghi sâu sắc. Trong đó, có sự xót xa và đau đớn khi nhà thơ không biết liệu tình cảm của người ở Vĩ Dạ với ông có còn “đậm đà” như trước hay không.

Bài thơ vẽ nên bức tranh thôn Vĩ Dạ với vẻ đẹp đặc trưng của thiên nhiên và con người xứ Huế. Dù chỉ là những hồi ức và tưởng tượng, hình ảnh ấy thấm đượm linh hồn của miền quê Vĩ Dạ qua tình yêu sâu sắc của nhà thơ. Ẩn sau đó là tâm trạng của Hàn Mặc Tử, với nỗi nhớ nhung da diết và khát vọng trở về, khao khát được kết nối với cuộc đời, nhưng cũng chứa đầy nỗi buồn và cô đơn vì bị ngăn cách bởi bệnh tật. Tuy vậy, qua từng câu chữ, ta vẫn thấy rõ một hồn thơ tài hoa, một tình yêu đời mãnh liệt, và niềm đam mê bất tận với cái đẹp của Hàn Mặc Tử.