BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bình an, hạnh phúc có nào xa

Cũng bởi tình thương tỏa khắp nhà

(Gia Đình – Nguyễn Xuân Viện)

Quả thực, có lẽ từ lâu hai tiếng “gia đình” đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người. Là nơi chứa đầy tình yêu thương và sự ngọt ngào của mẹ, là những lời tâm tình trầm ấm của cha. Là bến đỗ bình yên nhất mà ta luôn muốn chạy đến. Là nơi trái tim con người ta phải rung lên một khoảnh khắc khi chạm nhắc… Không chỉ hiện mình trong đời sống thường nhật mà hình ảnh gia đình, tình yêu thương của cha mẹ cũng xếp danh trong nền văn học Việt Nam. Và trong số đó, ta không thể không nhắc đến gia vị ngọt ngào của gia đình, của tình yêu thương vô vàn của người cha trong bài thơ “Nói với con” – Y Phương, là lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha dân tộc miền núi gửi gắm cho đứa con của mình, đồng thời gợi nhắc cho chúng ta về tình yêu quê hương, đất nước, ý chí vươn lên của dân tộc.

Bài học đầu tiên mà người cha Y Phương muốn gửi gắm cho đứa con của mình không phải là những gì vật chất hay xa vời, mà là nơi gần gũi nhất với chúng ta, nơi chứa đựng đầy ắp những tiếng cười:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.”

Mở ra khung cảnh của 4 câu thơ đầu với những hình ảnh cụ thể, cùng với nghệ thuật điệp cấu trúc và phép tăng tiến, ta như ngỡ mình đang ngắm nhìn một gia đình hạnh phúc, ấm êm và có cả những tiếng bi bô của em bé tập nói, những bước chân đầu đời mà em cố gắng đạt được. Có lẽ vui hơn em không ai khác chính là những người sinh thành, là cha mẹ của em, là những người nâng niu, nâng đỡ em từng ngày. Qua đó, người cha muốn nói với con rằng dù đi bất cứ nơi đâu, làm gì thì hãy luôn nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng của con, nơi sinh ra con. Bởi đây là bến đỗ mãi luôn dang tay chào đón con khi con thành công hay thất bại, khi con cần chỗ dựa bình an nhất thì nơi ấy – gia đình, sẽ là bờ vai cho con.

Bên cạnh tình yêu của gia đình con còn được lớn lên trong tình yêu của bản làng, của quê hương, trưởng thành dưới cuộc sống lao động nhộn nhịp của người đồng mình, của bản sắc thiên nhiên vô cùng cao đẹp:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Nếu 4 câu thơ đầu là những khoảnh khắc ngọt ngào, ấm áp của gia đình thì ở đây, Y Phương đã miêu tả cuộc sống lao động cần cù, đầy nghệ thuật của quê hương, của người đồng mình với những hình ảnh: Đan lờ cài nan hoa; Vách nhà ken câu hát. Điệp từ “cho” cùng với hình ảnh nhân hóa mà tác giả đã sử dụng ở trên cho ta thấy rằng: không những được lớn lên trong cuộc sống lao động mà con cũng sẽ được lớn lên trong bản sắc thiên nhiên của quê hương, lớn lên trong sự chứa chan nghĩa tình của người đồng mình, của cuộc sống vui tươi, đầy sắc màu của cuộc sống. Nghĩ đến khung cảnh đứa con gái của mình trong một tương lai không xa ấy, Y Phương lại một lần nữa quay về hồi ức của gia đình và xa hơn thế nữa chính là “ngày cưới” – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. Là sự khởi đầu của một tổ ấm hạnh phúc, cũng là nơi khởi nguồn những tình cảm thiêng liêng nhất của đời người.

Trong cái dư vị của cuộc sống lao động, kỉ niệm quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất cao quý của người đồng mình là sức mạnh bền bỉ của quê hương và mong con có thể kế tục những truyền thống cao đẹp đó:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

Ở đây ta bắt gặp một lần nữa hình ảnh “người đồng mình” nhưng lại là “thương” chứ không phải là “yêu” như ở khổ một. Ở khổ thơ đầu tác giả đã sử dụng từ “yêu”, yêu ở đây là yêu cái cuộc sống lao động nhộn nhịp của quê hương, yêu bản làng thơ mộng, những tấm lòng chân thiện nghĩa tình, thì từ “thương” ở khổ thơ thứ hai là thương cho cuộc sống gian nan vất vả của người đồng mình. Từ đó bộc lộ tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả.

Ở câu thơ tiếp theo tác giả đã sử dụng phép so sánh lấy cái trừu tượng để miêu tả cái cụ thể. Tính từ “cao” thường dùng để đo tầm vóc, từ “xa” để chỉ quãng đường đi của con người. Nhưng điều quan trọng nhất ở con người không phải là hình thức bên ngoài mà là đời sống bên trong tâm hồn. Và đời sống tâm hồn của người đồng mình chính là sự giàu ý chí, nghị lực, không ngừng vươn lên trong cuộc sống. Tác giả đã làm nổi bật đức tính cao đẹp ấy của quê hương mình, đồng thời cũng là niềm tự hào và là bài học mà ông muốn nhắn gửi đến con.

Bên cạnh sự ý chí nghị lực vươn lên ấy, mà “người đồng mình” còn có phẩm chất cao đẹp khác, đó là lòng thủy chung, gắn bó với quê hương dù khó khăn, đói nghèo chỉ cần sớm tối bên nhau, truyền cho nhau chút lửa, thì dù nghịch cảnh nào chăng nữa đều có thể vượt qua:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Với hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê như “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” gợi tả cho ta thấy sự khó khăn gian khổ của những con người nơi đây. Điệp từ “sống”, “không chê” và thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” mà tác giả đã sử dụng trên khổ thơ là muốn nhấn mạnh, khẳng định rằng: dù có vất vả đấy, có gian nan đấy, nhưng trái tim của những con người ở quê hương này chưa bao giờ là mệt mỏi, mà vẫn luôn bền bỉ, đập vỡ những rào cản của cuộc đời, sống một cuộc sống tự do, khoáng đạt, rộng lớn như “sông như suối”, sải cánh mạnh mẽ, tự tin mà bay khắp bốn phương trời…

Ngoài những phẩm chất cao đẹp về ý chí, nghị lực, về lòng thủy chung với quê hương mà “người đồng mình” còn có đức tính cao quý hơn thế nữa, đó lòng yêu bản làng, tôn cao vẻ đẹp truyền thống cao vời của quê hương, của người đồng mình:

“Người đồng mình thô sơ da thịt,

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.

Còn quê hương thì làm phong tục”.

Có lẽ hình ảnh “thô sơ da thịt” không còn xa lạ với chúng ta, gợi cho chúng ta thấy sự mộc mạc, đơn giản về vẻ ngoài của những con người quê hương nơi đây, của những người dân tộc miền núi. Tuy thế mà người đồng mình không hề “nhỏ bé” một chút nào, “thô sơ” về vẻ ngoài nhưng giàu về đời sống tâm hồn. Là những người luôn “tự đục đá kê cao quê hương”, tự xây dựng bản thôn, bản làng, phát triển quê hương, biến nó trở thành nơi đầy ắp những tiếng cười của gia đình hạnh phúc, tiếng trò chuyện của những “người đồng mình”. Là những con người giàu ý chí vươn lên trong cuộc sống và giàu lòng chung thủy với nơi quê cha đất tổ – nơi sinh ra của mình, để rồi những đức tính cao đẹp ấy trở thành “phong tục” của quê hương, của dân tộc Đại Việt này, để những phẩm chất tuyệt vời ấy trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc ta.