BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tiêu biểu về mùa thu, mang đậm phong cách tả cảnh ngụ tình. Qua những hình ảnh quen thuộc như ao thu, chiếc thuyền câu, và lá vàng, tác giả khắc họa một bức tranh mùa thu thanh bình, êm ả, và đầy cảm xúc.

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Thu điếu

I. Hiểu biết chung.

Tác giả (SGK).

Chùm thơ mùa thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm.

Ba bài thơ sử dụng bút phát chấm phá để gợi tả mùa thu ở làng quê cỏ vẻ đẹp trong sáng, thanh sơ, vắng lặng qua cái nhìn đắm lặng và sự rung động tinh tế của hồn thơ. Ba bài thơ còn thể hiện niềm ưu tư trước thời cuộc với nỗi buồn đất nước kín đáo, da diết.

Bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) có nét đặc sắc riêng khi thể hiện được thần thái của mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ.

II. Hướng cảm thụ.

1. Nếu trong Thu vịnh khung cảnh mùa thu thật rộng lớn, bát ngát thì ở bài thơ này khung cảnh mùa thu được giới hạn trong ao thu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyên câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo lờn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Không gian hẹp nên hình ảnh nào cũng nhỏ nhắn, duyên dáng: chiếc thuyền câu bé tẻo, làn sóng gợn tí, lá vàng rơi. Bằng xúc giác, nhà thơ đã cảm nhận hơi lạnh man mát tỏa ra từ làn nước ao thu. Nước mùa thu xanh, trong veo, hất dộng. Cơn gió vô tình lùa qua làm lao xao mặt nước, sóng gợn lên một tí rồi phẳng lặng trở lại, lá vàng khẽ đưa chơi vơi làm cho cảnh thu thêm sinh dộng. Tất cả đã đựng lên không khí tĩnh lặng, nhẹ nhàng. Chiếc thuyền câu xuất hiện cho thấy dấu vết của cuộc sống nhưng không khuấy động được không khí yên tĩnh của chiều thu.

Gió thu nhè nhẹ hòa hợp với hơi thu se lạnh và lá vàng chơi vơi đem đến cho mùa thu vẻ đẹp tự nhiên trong sáng êm đềm và gợi cảm giác lâng lâng mát mẻ. Hồn thơ đang đắm chìm trong vẻ đẹp thân thuộc bình dị, đơn sơ ấy.

Không gian được mở rộng và nâng lên:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Những cụm mây trắng lơ lửng in trên nền trời xanh biếc. Không gian cũng bất động như làn nước để gợi lên hồn thu yên ả, tịch mịch. Ngõ trúc quanh co hun hút càng làm tăng thêm chiều sâu thanh vắng. Chỉ cần một hình ảnh ngõ trúc thân thuộc, tác già cũng đã lột tả được không khí thần thái của làng quê.

Đặc sắc nghệ thuật của Thu điếu là sự hòa diệu của màu sắc trong trẻo: xanh trời, xanh nước, xanh trúc, xanh bèo, của cử động: gợn tí, sẽ đưa, đớp động; của hình ảnh: nước trong, trời cao, mây trắng, ngõ vắng, thuyền câu. Tất cả như say trong cái tĩnh lặng. Chi có một âm thanh khuấy động: tiếng cá đớp, nhưng âm thanh này cũng góp phần làm tăng thêm cái tĩnh của chiều thu. Từ thi liệu đến nghệ thuật tả, lấy “động” để tả “tĩnh” biểu hiện vẻ đẹp cổ điển của bài thơ. Cách gieo vần eo cho thấy không gian như đang thu lại, hơi lạnh cũng se sắt và nhà thơ cũng đang thu mình trong cô đơn, u uẩn.

Sự rung động tinh tế và niềm say mê trước vẻ đẹp bình dị của mùa thu quê hương đã bộc lộ tình quê hương tha thiết của nhà thơ. Bài thơ mở ra một thế giới trong sáng, yên tĩnh, sâu lắng. Đó cũng là thế giới tâm hồn của nhà thơ, tương phản với chốn quan trường nháo nhác, lợi danh.

2. Hình ảnh nhà thơ.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng dược,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Nhà thơ đi câu cá nhưng chi thấy tựa gối ôm cần nhìn trời mây, lá rụng, đắm say cùng cảnh vật rồi hồn thơ trôi tận đâu đâu. Đến khi có tiếng cá đớp, nhà thơ mới giật mình quay về thực tại. Chứng tỏ nhà thơ đâu có tha thiết gì đến việc câu cá.

Người xưa lấy việc câu cá để đợi thời như Khương Tử Nha đời nhà Chu, hay lấy việc câu cá để lánh xa danh lợi như Nghiêm Tử Lãng đời nhà Hán - Trung Hoa, Nguyễn Khuyến đi câu là lánh dục, về với thiên nhiên thanh trong, để giữ cho tâm hồn được yên tĩnh thanh cao. Trong hoàn cảnh đất nước thời bây giờ, việc làm này cho thấy một nhân cách thật đáng quý, đáng trọng.

III. Kết luận.

Thu điếu gợi tả vẻ đẹp mùa thu làng quê, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tha thiết của nhà thơ. Bài thơ còn kín đáo thể hiện nỗi buồn đất nước và nhân cách đẹp của nhà thơ.

Bài thơ sử dụng bút pháp cổ điển trong gợi tả những ngôn từ thuần Việt giản dị, tinh tế có khả năng lột tả được thần thái của cảnh và trạng thái tâm hồn thi nhân.

Cảm nhận bài thơ Thu điếu chọn loc nâng cao

Mẫu số 1

Mùa thu là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Đặc biệt, Nguyễn Khuyến có một chùm thơ thu đặc sắc: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Nhà thơ dùng cảnh thu và tình thu để bày tỏ lòng mình. Qua thơ thu, ta thấy hiện lên một phần đáng trân trọng trong con người Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ "Thu điếu" – Câu cá mùa thu, Nguyễn Khuyến hiện lên với tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.

Thơ thu xưa chẳng khi nào vui. Nhắc đến thơ thu là nhắc đến những tâm trạng u hoài, man mác. "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Thơ gợi tình người mà người buồn thì thơ làm sao vui được? Bài thơ ra đời khi Nguyễn Khuyến đã quá bất mãn với xã hội, lui về ở ẩn tại quê nhà. Xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến cướp đi quyền tự chủ của nước nhà, gieo rắc đau thương mất mát cho đất nước, con người Việt Nam. Buồn vì thảm cảnh, không hợp tác với thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến thể hiện khí tiết của mình khi về quê câu cá. Bài thơ "Câu cá mùa thu" xuất phát từ tâm sự, nỗi niềm như thế để giãi bày với hồn thiêng sông núi quê hương một tấm lòng yêu nước thiết tha, day dứt.

Điều dễ thấy trong "Câu cá mùa thu" là cảnh tuy buồn nhưng vô cùng đẹp đẽ. Điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước và yêu thiên nhiên của thi nhân. Bức tranh mùa thu hiện lên trong trẻo, xinh xắn làm sao:

"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo  

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo  

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí  

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo  

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt  

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo."

Cái se lạnh của mùa thu làm làn nước ao "lạnh lẽo" và "trong veo". Câu thơ không chỉ nhắc đến cái lạnh mà còn gợi lên sự tĩnh lặng, vắng vẻ, và buồn buồn của cảnh vật. "Ao thu lạnh lẽo" khiến mọi loài chỉ muốn lặn mình xuống đáy, không muốn bơi lội nô đùa. Vì thế, làn nước "trong veo" - trong trẻo, tĩnh lặng, cái trong có hình có khối. Tưởng đôi mắt Thuý Kiều – "làn thu thuỷ" – cũng chỉ trong đến thế.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cái ao làng mùa thu – một hình ảnh quen thuộc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Và từ đây, mọi cảnh vật trong bài thơ đều xoay quanh cái ao ấy, lấy cái ao làm điểm nhìn nghệ thuật. Hơi thu man mác, lạnh lẽo, trầm buồn từ làn nước mùa thu "trong veo" đang lan toả thấm dần vào từng hơi gió.

Trên nền ao thu vốn đã rất nhỏ là "một chiếc thuyền câu bé tẻo teo". Chỉ là "một chiếc" thôi không hơn. Số từ "một" khiến chiếc thuyền câu bơ vơ đơn độc. Mà "một chiếc thuyền câu" lại "bé tẻo teo" nên càng mong manh tội nghiệp.

Điểm xuyết cho bức tranh thu xinh xắn là gợn "sóng biếc" và chiếc lá vàng. Tưởng rằng thêm vào sẽ bớt vắng vẻ đìu hiu, nhưng ở đây, làn sóng biếc và chiếc lá vàng càng gợi cái nhỏ bé mong manh của sự vật. Bởi "sóng biếc" thì "theo làn hơi gợn tí", chỉ "hơi" gợn, chăm chú lắm mới thấy, mà còn là "gợn tí" – một chút cỏn con... Còn lá vàng thì "đưa vèo" như chỉ tạo ra một vệt sáng vàng rồi nhanh chóng nằm lặng im nơi nào đó.

Chiếc "lá vàng" ấy là lá gì? Là lá trúc, lá tre chăng? Có thể lắm bởi bờ ao đồng bằng Bắc Bộ thường có những luỹ tre xanh toả bóng êm dịu. Càng có thể bởi ở hai câu sau nhà thơ đã viết:

"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt  

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo."

Không gian được mở rộng lên chiều cao và sang bề rộng. Vậy nhưng cũng không bớt vắng vẻ cô đơn. Mây trắng "lơ lửng" giữa không trung không về với trời; chẳng sà xuống thấp, lẻ loi trôi dạt trong bao la. Sắc trời "xanh ngắt" – xanh rất đậm, xanh như có hình khối, sắc xanh tuyệt đối ấy càng khẳng định cái đơn côi lẻ loi của sự vật.

Trời xanh cao mà buồn quá. Hạ tầm nhìn xuống thấp mong chờ sự giao hoà đồng cảm nhưng nhà thơ chỉ thấy "ngõ trúc quanh co khách vắng teo". Đường làng vốn đã rất nhỏ nay lại quanh co khúc khuỷu, tưởng như một dải lụa cố xoắn mình tự thu nhỏ lại. Đường vắng vẻ, vắng lắm, "vắng teo". Nếu chẳng "vắng teo", dẫu có bóng người có lẽ cũng nhỏ bé, đơn độc lắm.

Một bức tranh thu xinh xắn hài hoà. Sự vật gì cũng thu mình lại để nhỏ hơn, để hoà hợp hơn với khuôn hình của sự vật khác. Đặc biệt, cách dùng vần "eo" rất tinh tế: "lạnh lẽo", "trong veo", "tẻo teo", "đưa vèo"... Ở đây có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: vần "eo" khiến cảnh vật càng bé nhỏ, mong manh đơn côi hơn. Bức tranh thiên nhiên xinh xắn, đẹp đẽ thể hiện một tâm hồn thi nhân tinh tế, nhạy cảm. Hơn thế còn bộc lộ một con người đồng cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết.

So sánh thiên nhiên trong "Câu cá mùa thu" với những bài thơ thu khác ta càng trân trọng hơn tấm lòng Nguyễn Khuyến. Thơ xưa tả mùa thu thường mượn lá ngô đồng, rừng phong đỏ để gợi tứ gợi tình: "Một chiếc lá ngô đồng rụng / Ai cũng biết là mùa thu đã về" hoặc "Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san". Bích Khê của "thơ mới" cũng vận dụng thơ theo lối này:

"Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng  

Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông."

Ai cũng biết "lá ngô đồng" và "rừng phong đỏ" là hình ảnh ước lệ tả mùa thu, hai hình ảnh ấy tượng trưng cho mùa thu Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại Việt Nam theo lối "tập cổ" mà vẫn ưu ái những hình ảnh ấy. Thiên nhiên trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì khác. Không một chút vay mượn, chỉ có cái thuần cảnh vật quê hương. Ao làng, bụi trúc, lá vàng rơi… những hình ảnh ấy giản dị, quen thuộc với người dân đồng bằng Bắc Bộ. Đưa chúng vào thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên quê nhà tha thiết, lòng tự hào về cảnh sắc quê hương. Tình yêu ấy cảm động ở việc đã phá bỏ những lề lối ước lệ bền chắc xưa cũ.

Chưa hết, một bài thơ Đường luật năm mươi sáu chữ không một chữ nào không thuần Việt. Chẳng ai tìm được một từ Hán Việt nào, nhà thơ hoàn toàn dùng ngôn ngữ của đất nước để vẽ nên bức tranh tuyệt mĩ về quê hương. Chẳng những vậy, nhà thơ còn vận dụng rất tài tình vần "eo" – vần thơ rất đặc biệt, nó nôm na xa lạ với thơ cổ nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật rất cao. Sự tài tình trên chỉ có thể có ở một nhà thơ yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng dân tộc, tự hào về đất nước mình.

Thiên nhiên đẹp đẽ nhưng tầng sâu của nó là một nỗi buồn, một tâm sự của thi nhân. Cảnh đẹp nhưng sao buồn thế! Mọi vật đều hững hờ, đơn côi đến vô tình. Nguyễn Du đã có một câu thơ thật hay "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Ở đây, cảnh thu cũng vậy. Nguyễn Khuyến buồn thì có cớ gì để cảnh vui? Cảnh buồn, cảnh cô đơn bởi nhà thơ cũng đang mang nặng cảm giác ấy giữa cuộc đời biến động. Bất mãn với xã hội, khinh bạc chốn quan trường nhưng vẫn nặng lòng lo cho an nguy của Tổ quốc. Vậy nên, dù lui về

Mẫu số 2

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ vĩ đại, có đóng góp quan trọng cho nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường đưa vào thơ những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên ả. "Thu điếu" là một trong những bài thơ tiêu biểu trong chuỗi tác phẩm mùa thu của Nguyễn Khuyến (bao gồm "Thu điếu", "Thu vịnh", "Thu ẩm"). Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, mà còn phản ánh tình yêu sâu sắc của thi sĩ đối với thiên nhiên.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”

Hình ảnh “ao thu” trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện chân thực đặc trưng của làng quê Việt Nam. Cảnh vật mở ra trước mắt người đọc là ao thu trong vùng chiêm trũng đất Bắc, với từ “trong veo” miêu tả sự trong vắt đến mức có thể nhìn thấy đáy. Thời điểm này có vẻ không phải đầu thu mà là giữa hoặc cuối thu, vì thế không khí mang cảm giác lạnh lẽo, hiu quạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh ao thu rộng lớn nhưng lạnh lẽo, nổi bật với một chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm tăng sự cô đơn của không gian. Hai câu thơ mở đầu được gieo vần “eo” làm cho không gian mùa thu thêm phần buồn bã.

Nếu hai câu thơ đầu miêu tả vẻ yên ắng của buổi câu cá mùa thu, thì các câu thơ tiếp theo sẽ làm cho cảnh sắc mùa thu trở nên sống động hơn.

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Câu thơ bắt đầu diễn tả sự chuyển động nhẹ nhàng của thiên nhiên mùa thu, dù những chuyển động này chỉ là thoáng qua và nhẹ nhàng. Nhà thơ miêu tả hình ảnh “sóng biếc” chỉ hơi gợn nhẹ và “lá vàng” cũng chỉ khe khẽ đưa ve. Hai từ “hơi” và “khe nhẹ” cho thấy sự chuyển động rất dịu dàng trong cảnh sắc mùa thu. Nguyễn Khuyến dường như rất nhạy cảm mới nhận ra được sự tinh tế đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi lên một màu xanh tươi mát trên mặt ao, mang đến một cảm giác dễ chịu và tinh tế. Không chỉ có sóng biếc, mà “lá vàng” cũng được nhà thơ đưa vào bài thơ một cách tinh tế. Mùa thu thường được gắn liền với sự thay đổi của lá, với màu vàng và sự rụng xuống của lá, vì vậy hình ảnh lá vàng đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm thơ mùa thu.

Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Đọc câu thơ, người đọc hình dung một bầu trời thu cao vút và rộng lớn. Chỉ có một bầu trời cao mới tạo ra được màu xanh ngắt. Nếu dưới ao thu là màu “biếc” của sóng thu và màu vàng của “lá” thu, thì ở đây là một màu xanh bao la, ngút ngàn. Trên bầu trời thu ấy, những “tầng mây” đang “lơ lửng”, tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, như đang trôi đi rất từ từ. Cả không gian mùa thu, từ đất đến trời, dường như đều ở trạng thái chậm rãi. Nhà thơ chuyển trở lại với cảnh vật phía dưới, những con ngõ nhỏ xa xa. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” và “vắng teo” diễn tả một con ngõ ngoằn ngoèo, vắng vẻ, không có khách qua lại, gợi cảm giác cô đơn, hiu hắt và buồn bã.

Trước khung cảnh tĩnh lặng, quạnh quẽ và lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ trở lại với buổi câu cá mùa thu:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Xung quanh không khí u buồn và tĩnh lặng của mùa thu, nhà thơ trở lại với hoạt động câu cá để làm cho tâm hồn mình thêm thư thái. Hình ảnh “tựa gối” phản ánh sự chăm chú và suy nghĩ lâu dài trước cảnh sắc buồn của mùa thu. Trong khi đắm chìm trong những cảm xúc cô đơn và buồn bã, nhà thơ bỗng giật mình khi có chú cá nhỏ “đớp động dưới chân bèo”. Câu thơ này làm nổi bật trạng thái suy tư của nhà thơ, thể hiện cảm giác buồn sâu sắc, một nỗi buồn xa vắng. Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ này khi ông sống ẩn dật ở thôn quê, và đặt vào bối cảnh ấy, người đọc càng cảm nhận rõ hơn tâm trạng trong “Thu điếu”. Bài thơ không chỉ phản ánh nỗi buồn của thời thế loạn lạc và nỗi lòng lầm than mà còn là biểu hiện của tình yêu thiên nhiên và đất nước sâu sắc trong trái tim thi sĩ.

“Thu điếu” là một trong những tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khuyến về mùa thu. Bài thơ để lại ấn tượng mạnh với cảnh sắc mùa thu đẹp và tĩnh lặng, cùng tình yêu thiên nhiên của nhà thơ. Đồng thời, bài thơ cũng phản ánh những nỗi niềm của thời đại và tình yêu nước, thương dân sâu sắc của ông.

Mẫu số 3

Khi nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người ta thường gọi ông là thi sĩ của làng quê Việt Nam, nhờ vào những tác phẩm xuất sắc về cảnh sắc nông thôn. Đặc biệt, chùm thơ thu của ông, với bài thơ "Thu điếu" nổi bật, là một trong những minh chứng rõ ràng cho tình yêu ấy.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần, lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Chùm thơ gồm ba tác phẩm: "Thu vịnh", "Thu ẩm", và "Thu điếu". Mỗi bài đều thể hiện vẻ đẹp và tình cảm sâu sắc về quê hương. Đặc biệt, bài "Thu điếu" được nhà thơ Xuân Diệu đánh giá là tiêu biểu nhất cho mùa thu của làng quê Việt Nam, với cách tả cảnh và cảm xúc độc đáo: cảnh thu và tình yêu thiên nhiên hòa quyện với tình cảm sâu nặng dành cho quê hương.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, với ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh biểu cảm. Cảnh sắc mùa thu của làng quê Việt Nam hiện lên rõ nét qua bút pháp tài tình của Nguyễn Khuyến.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Nhà thơ dường như không mấy quan tâm đến việc câu cá mà lại bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của mùa thu. Ngay từ câu mở đầu, ông đã gọi ao của mình là "ao thu", với sự lạnh lẽo và nước trong veo, điều này cho thấy ao thu không phải là nơi lý tưởng cho việc câu cá. Cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, với một không gian trong trẻo và tĩnh lặng gần như hoàn toàn: nước trong vắt, trời xanh ngắt, và vắng lặng. Giác quan của nhà thơ rất nhạy bén, chỉ có sự chú ý tỉ mỉ mới giúp nhận ra những chi tiết tinh tế, làm nổi bật sự trong sáng và tĩnh lặng của một khung cảnh đầy màu sắc.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu: "Vèo trông lá rụng đầy sân"

Đến câu luận:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Không gian trong bức tranh mùa thu được mở rộng với chiều cao của bầu trời xanh ngắt, cùng những tầng mây lơ lửng trôi nhẹ theo gió. Trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, sắc trời thu luôn được miêu tả là xanh ngắt. Trong bài "Thu vịnh," trời thu được gọi là "xanh ngắt mấy tầng cao," trong "Thu ẩm," là "da trời ai nhuộm mà xanh ngắt," và trong "Thu điếu," là "tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt."

Xanh ngắt gợi lên một màu xanh sâu thẳm. Trời thu không có màu mây xám mà chỉ là một sắc xanh thăm thẳm. Màu xanh ngắt này thể hiện sự sâu lắng của không gian, cái nhìn xa vời của nhà thơ và ông lão câu cá. Ông lơ đãng nhìn xung quanh, thấy xóm thôn vắng lặng và tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không có bóng người qua lại.

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước, "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tí teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ "tầng mây lơ lửng" đến "ngõ trúc"... đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.

Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi câu cá của ông như cũng bất động trong thời gian:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Tựa gối buông cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.

Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.

Bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm nổi bật với hình thức tả cảnh ngụ tình. Mùa thu quê hương được hiện lên qua những gam màu sắc đậm nhạt, với các nét vẽ xa gần tinh tế và đầy cảm xúc. Âm thanh của lá rơi trong gió thu và tiếng cá đớp động dưới chân bèo tạo nên một bản giao hưởng mùa thu giản dị và thân thuộc, gợi nhắc bao hoài niệm về quê hương.

Nguyễn Khuyến không chỉ thể hiện sự yêu mến thiên nhiên mùa thu mà còn bộc lộ tình yêu sâu đậm với cảnh sắc đồng quê. Ông là một nhà thơ nổi bật của làng cảnh Việt Nam. Qua các bài thơ như “Thu điếu,” “Thu ẩm,” và “Thu vịnh,” độc giả sẽ càng thêm yêu mến quê hương và cảnh sắc xóm thôn, đồng nội của đất nước.

Mẫu số 4

Nguyễn Khuyến không chỉ là một nhà thơ trào phúng mà còn là một nhà thơ trữ tình, ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông phương. Thơ chữ Hán của ông chủ yếu là thơ trữ tình. Có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến thành công trên cả hai phương diện này. "Thu điếu" là một phần trong chùm thơ thu gồm ba bài: "Thu điếu" và "Thu vịnh." Cả ba tác phẩm đều được viết bằng từ chương và bút pháp thi trung hữu họa, sử dụng cách miêu tả động để diễn tả tĩnh của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân của một trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.

Cảnh vật được miêu tả từ gần đến xa và từ xa trở lại gần. Từ góc nhìn của một người ngồi trên chiếc thuyền, nhìn ra mặt ao, ngước lên bầu trời, rồi nhìn về ngõ vắng, và cuối cùng trở lại với ao thu, nhà thơ đã quan sát không gian và cảnh sắc mùa thu một cách sinh động và tinh tế.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”

Nguyễn Khuyến đã lựa chọn những đặc trưng tiêu biểu của mùa thu xứ Bắc (như ao thu, gió thu, trời thu). Ao thu là loại ao đặc biệt, chỉ xuất hiện vào mùa thu. Nguyễn Khuyến đã ghi nhận hai đặc điểm nổi bật của ao thu: sự lạnh lẽo và sự trong veo – ao lạnh với nước yên tĩnh, trong suốt đến tận đáy. Ao thường xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khuyến, và khi nhắc đến ao, người ta liên tưởng đến một điều gì đó gần gũi, thân thiết, phản ánh tâm hồn Nguyễn Khuyến: giản dị, chân thành và hòa quyện với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng là một hình ảnh quen thuộc trong thơ của ông. Bầu trời thu xanh ngắt luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, với những áng mây lơ lửng thay vì bay khắp bầu trời. Xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện sự tinh khiết tuyệt đối, không pha lẫn, không gợn tạp.

Các đường nét trong cảnh vật được miêu tả một cách nhẹ nhàng, thanh thoát, tinh tế: gợn sóng nhẹ, mây lơ lửng, đường viền mảnh mai của rặng trúc, và gợn sóng của ao thu. Cảnh vật toát lên sự hài hòa và tương hợp: ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng vẻ – chủ thể trầm tư tĩnh lặng. Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu tới" sau này cũng đã ghi nhận những nét đặc trưng đó của sông nước vùng quê khi trời bắt đầu chuyển sang những ngày lạnh giá.

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

… Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò.

Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả với các từ láy không chỉ tạo ra hình ảnh mà còn gợi cảm xúc, với các tính từ và từ chỉ mức độ như lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vắng teo. Những từ này tạo ra cảm giác thu hẹp không gian, làm nổi bật sự nhỏ bé và tinh tế của cảnh vật.

Bức tranh mùa thu không chỉ là một cảnh buồn mà còn phản ánh tâm trạng của người trong cảnh. Có phải đây là tâm trạng của nhà thơ trước sự thay đổi nhanh chóng của thời thế? Chỉ trong một chốc lát, non sông đã rơi vào tay kẻ thù, và thời cuộc cũng đã vụt qua như lá vàng trước gió. Mặt nước, tầng mây lơ lửng, và sắc trời mở ra không gian cho bài thơ, nhưng liệu chúng có ẩn chứa nỗi niềm về thời cuộc? Việc chọn con đường ở ẩn để giữ gìn danh dự, giữ lấy cái cao khiết, có phải là lựa chọn đúng đắn hay chỉ là cách “chạy làng” trong một lời lẽ cay đắng của một trí thức?

Ngõ trúc quanh co với khách vắng vẻ có phải là biểu hiện của sự cô đơn, lẻ loi? Nguyễn Khuyến từng tự nhận mình như một cành trúc cô đơn, lẻ loi trước sự náo nhiệt của thời cuộc. Đây là tâm trạng của một nhà nho lánh đời, dù thoát tục nhưng vẫn không thôi lo lắng về đất nước, nhân dân, và sự bất lực của bản thân. Mặc dù sống thanh nhàn, tâm hồn Nguyễn Khuyến vẫn không thể hoàn toàn thư thái như một ẩn sĩ thực thụ.

Câu thơ cuối chỉ có một âm thanh duy nhất: tiếng cá đớp mồi. Có lẽ đó là âm thanh phản chiếu tâm trạng của người câu cá. Nguyễn Khuyến viết về câu cá nhưng thực chất không phải chú trọng vào hành động đó. Việc câu cá chỉ là cái cớ để tiếp nhận vẻ đẹp của mùa thu, để gửi gắm tâm sự của mình. Tâm hồn tĩnh lặng giúp cảm nhận sự trong veo của nước, sự gợn sóng nhẹ, và sự rơi khẽ của lá. Đặc biệt, sự tĩnh lặng của tâm hồn được nhấn mạnh qua tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. Đó là biểu hiện của sự tĩnh lặng tuyệt đối trong tâm cảnh, nơi tâm hồn của thi nhân hòa quyện với vẻ đẹp trong trẻo của làng quê Việt vào mùa thu.

Bài thơ "Câu cá mùa thu" thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận và nghệ thuật gợi tả của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời phản ánh tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng của thời thế trong tài năng thơ Nôm của ông.

Mẫu số 5

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm về mùa thu, bao gồm các bài thơ như "Thu điếu," "Thu vịnh," và "Thu ẩm." Chính nhờ chùm thơ mùa thu này mà Nguyễn Khuyến đã trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu viết về mùa thu. Những câu thơ trong các bài thơ mùa thu của ông nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người và khó có thể quên. Khi nhắc đến thơ mùa thu Việt Nam, "Thu điếu" chính là một trong những bài thơ tiêu biểu.

Được coi là một trong những nhà thơ đại diện cho cảnh sắc làng quê Việt Nam, ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là "Thu điếu," đã trở thành những bức tranh mùa thu đặc sắc trong văn học Việt Nam. Với nét đẹp mùa thu được thi vị hóa, chúng trở thành những bức tranh độc đáo. Các hình ảnh như ao nước, mặt hồ và cảnh làng quê Việt Nam xuất hiện lần lượt, mang đến sự bình dị và gần gũi với cuộc sống của người Việt.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo te

Mở đầu bài thơ là sự kết hợp giữa con người và cảnh vật qua các hình ảnh quen thuộc như “ao,” “nước trong veo,” và “chiếc thuyền câu.” Đây là những hình ảnh thường gặp ở các làng quê. Tuy nhiên, qua cái nhìn của nhà thơ, bức tranh này mang một hồn sắc riêng biệt, khác với cái nhìn thông thường. “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” gợi lên hình ảnh ao nước mùa thu hòa quyện với sự se lạnh đặc trưng của mùa thu, giúp người đọc cảm nhận được mùa thu đang hiện diện ngay trước mắt. Đến hình ảnh con người, nhà thơ miêu tả bằng “chiếc thuyền câu bé tẻo teo,” trong một bức tranh mùa thu rộng lớn và bao la, con người hiện lên như một nét chấm nhỏ trên bức tranh.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tiếp theo là hình ảnh của những con sóng. Trong miêu tả của nhà thơ Nguyễn Khuyến, những con sóng không mạnh mẽ mà lại nhẹ nhàng, “theo làn hơi gợn tí,” phản ánh sự yên bình của bức tranh làng quê. Bức tranh mộc mạc này được làm nổi bật bởi màu sắc của “lá vàng,” tạo nên sự sáng tươi cho cảnh vật. Tác giả chọn màu vàng làm nền cho bức tranh vì đây là màu đặc trưng của mùa thu. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn làm cho bức tranh mùa thu trở nên sinh động hơn với động từ “vèo,” thể hiện sự chuyển động nhẹ nhàng trong thời khắc giao mùa. Nghệ thuật trong phần thực rất tinh tế, với lá vàng hòa quyện cùng sóng biếc, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với sự gợn sóng nhẹ. Cách kết hợp vần ở cuối mỗi câu làm cho không gian vừa tĩnh lặng lại vừa thu hẹp, làm nổi bật tâm điểm của bài thơ và tập trung điểm nhìn hơn.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Bức tranh mùa thu còn được Nguyễn Khuyến mở rộng đến tận trời xanh, “ tầng mây”, “ trời” là những hình ảnh rất đỗi chân thực nhưng bầu trời của nhà văn lại mang màu sắc khác, “ tầng mây lơ lửng”, “ trời xanh ngắt” mở ra cho người đọc một không gian mênh mông của cao, vừa rộng, vừa xa

Ngõ trúc quanh co khách vắng te

Hình ảnh tre, trúc là những biểu tượng quen thuộc trong tranh làng quê Việt Nam, và nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã khéo léo sử dụng những hình ảnh thân thuộc này trong tác phẩm của mình. Thay vì lựa chọn các hình ảnh lạ lẫm, ông chỉ sử dụng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống làng quê, làm cho cảnh vật trở nên êm đềm và mang một nỗi buồn tĩnh lặng, chìm vào không khí vắng lặng của mùa thu. Từ mặt nước và ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền câu bé nhỏ, từ sóng biếc và lá vàng đến tầng mây lơ lửng và ngõ trúc, tất cả hiện lên với đường nét, màu sắc, và âm thanh đầy bâng khuâng, gần gũi với người Việt Nam. Dù thời gian trôi qua trong không gian yên tĩnh ấy, tư thế ngồi của người câu cá vẫn dường như bất động, hòa quyện vào thời gian.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Tư thế của người câu cá, tựa gối ôm cần, kết hợp với âm thanh “cá đớp động dưới chân bèo,” tạo ra cảm giác muốn trở về với làng quê và sống trong không gian mùa thu.

“Thu điếu” là một bài thơ mùa thu đặc sắc với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo. Cảnh sắc mùa thu của quê hương được miêu tả qua những gam màu đậm nhạt và nét vẽ xa gần tinh tế, gợi lên cảm xúc. Âm thanh của cảnh vật cũng trở nên tinh tế dưới sự quan sát và nhạy bén của tác giả. Những hình ảnh quen thuộc và bình dị trở thành chất liệu để dệt nên những bài thơ đầy cảm xúc như vậy.