BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Kịch là một thể loại đặc biệt, nó là một thể loại văn học (kịch bản), sau đó là một tác phẩm sân khấu (nghệ thuật trình diễn). Trước khi lên sàn diễn với sự sáng tạo, chỉ đạo của đạo diễn và diễn xuất của diễn viên, hỗ trợ của sân khấu thì nó là “kịch bản văn học”.

I. Khái niệm:

1. Kịch là gì?

Kịch là một thể loại đặc biệt, nó là một thể loại văn học (kịch bản), sau đó là một tác phẩm sân khấu (nghệ thuật trình diễn). Trước khi lên sàn diễn với sự sáng tạo, chỉ đạo của đạo diễn và diễn xuất của diễn viên, hỗ trợ của sân khấu thì nó là “kịch bản văn học”.Theo Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, thuật ngữ “kịch” được dùng theo hai cấp độ khác nhau, cấp độ loại hình và cấp độ loại thể.

Ở cấp độ loại hình: “Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Kịch bản vừa dùng để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Theo đó, tiếp nhận kịch bản chính là tiếp nhận phương diện của văn học kịch”. Nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói. (Riêng kịch câm không diễn tả bằng lời).

Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học - sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch còn được gọi là chính kịch”. Ở đây, kịch là một thể loại tồn tại bên cạnh các loại hình nghệ thuật sân khấu khác như kịch múa, kịch hát.

Do kịch được viết ra để biểu diễn nên tác phẩm kịch không thể chứa một dung lượng hiện thực rộng lớn như tiểu thuyết, cũng không thể lắng đọng trong mạch chìm cảm xúc, suy tư như thơ ca. Kịch chọn những xung đột trong đời sống làm đối tượng mô tả. Những xung đột đó được bộc lộ trong sự xung đột về tư tưởng, suy nghĩ, hành động của các nhân vật kịch. Nhân vật kịch là những người tham gia trong vở kịch, thực hiện các hành động kịch chủ yếu bằng lời thoại. Ngôn ngữ kịch thể hiện bằng lời thoại của các nhân vật. Lời thoại trong kịch có thể là lời đối đáp giữa các nhân vật, lời độc thoại nội tâm của nhân vật, lời nhân vật nói với người xem. Những lời thoại này vừa giống lại vừa khác với lời nói trong sinh hoạt đời thường. Tính chất khác biệt thể hiện ở sự giao lưu đa tuyến trong lời thoại kịch: các nhân vật nói với nhau là nói cho người xem nghe, đồng thời nói một mình cũng là nói cho người xem nghe và có khi có cả nói trực tiếp với người xem.

2. Kịch bản văn học

Kịch bản thực ra không phải là một loại thể sân khấu đơn thuần, không nên đánh đồng kịch bản với nghệ thuật sân khấu nói chung bao gồm kịch nói, kịch hát, kịch múa, nhạc kịch,... Bất cứ loại kịch nào, kể cả kịch câm cũng có kịch bản, nhưng chỉ có kịch hát, nhất là kịch nói mới có kịch bản văn học.

Kịch bản vừa có đầy đủ các đặc điểm, các tính chất của một tác phẩm văn học vừa mang đậm chất sân khấu: Phải giới hạn dung lượng văn bản ngôn từ của ở kịch phù hợp với tính chất của sân khấu, không thể kéo dài về thời gian, quá rộng về không gian. Phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu tả. Người viết phải lựa chọn sự kiện, dồn nén hành động ngay từ kịch bản cho phù hợp với tiết tấu của kịch.

Kịch bản văn học là một bộ phận của nghệ thuật ngôn từ nên mang những đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, có cốt truyện, nhân vật, có hình tượng nghệ thuật,…

II. Đặc trưng loại thể của kịch bản văn học

Ngay từ thời xa xưa, với kịch đã hình thành một hệ thống thi pháp nghiêm ngặt mà những nhà lí luận, những kịch gia nổi tiếng thế giới từ thời cổ đại (Aristote) cho đến ngày nay đã nêu lên trong các công trình nghiên cứu của mình. Với tính chất vừa là tác phẩm sân khấu vừa là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, thi pháp kịch đòi hỏi nghiêm ngặt hơn.

Là một thể loại văn học, kịch có đủ tư cách để thu nạp trong lòng nó tất cả các phẩm chất thi ca được sáng tạo bằng những nguyên lý của một thi pháp tinh vi. Song kịch đã và sẽ không bao giờ là một thể loại văn học đơn thuần như trữ tình và tự sự, tức là một thể loại chỉ để đọc mà còn để diễn.

=> Vì vậy, những đòi hỏi về mặt thi pháp của kịch nghiêm ngặt hơn so với các thể loại khác.

1. Cốt truyện, sự kiện, hoàn cảnh kịch tập trung cao độ

Yêu cầu tập trung cao độ của cốt truyện kịch được thể hiện trong luật “tam duy nhất” (duy nhất về địa điểm, duy nhất về thời gian và duy nhất về hành động) trong nguyên tắc biên soạn kịch từ thời “Nghệ thuật thi ca” của Aristote. Hơn nữa, do yêu cầu để biểu diễn trên sân khấu, nên kịch phải đảm bảo khuôn khổ không thể quá lớn, nhân vật không thể quá nhiều, sự kiện không thể quá phức tạp, thời gian không thể kéo quá dài,bối cảnh không thể quá phân tán, biến hóa không thể quá phức tạp mà chỉ tập trung vào những gì nổi bật.

Các tình tiết, biến cố trong cốt truyện của tác phẩm kịch lại thường phát triển mau lẹ, vì thế tác phẩm kịch không được phép mở rộng không gian, kéo dài thời gian diễn biến của các sự kiện, biến cố.

Để tạo hứng thú cho người xem, thi pháp cốt truyện của kịch rất coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ.

Việc tôn trọng nguyên tắc tập trung cao độ của cốt truyện đã chi phối cách thức tổ chức bố cục của kịch bản văn học. Một vở kịch thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương ứng với ba giai đoạn vận động hết sức mau lẹ của hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có phần trình bày) - đỉnh điểm - mở nút (có thể thêm phần vĩ thanh).

=> Do yêu cầu tập trung cao độ của cốt truyện nên sự kiện, hoàn cảnh, hành động, Ngôn ngữ kịch cần đạt đến độ chắt lọc điển hình. Như vậy, sự kiện phải được chọn lọc rất kỹ và gọt giũa sao cho có thể bộc lộ tốt nhất tư tưởng của tác phẩm, dụng ý của tác giả. Hoàn cảnh trong kịch là hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh xảy ra sự kiện, biến cố, mang tính có vấn đề, đẩy mạnh cao trào hay có ý nghĩa giải quyết xung đột.

2. Xung đột kịch tạo nên kịch tính, là "linh hồn" của kịch

Trong kịch bản, tình huống có vai trò quan trọng. Không có tình huống có xung đột thì không có kịch: tình huống là tiền đề để tạo nên mâu thuẫn, xung đột; tình huống là nơi sự kiện xảy ra để mâu thuẫn được bộc lộ qua xung đột; tình huống là nơi để cho hành động thay đổi, phát triển.

Kịch tính là trạng thái căng thẳng đặc biệt của mâu thuẫn, xung đột, được tạo ra bởi những hành động thể hiện các khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người. Kịch tính là đặc trưng nổi bật của thể loại kịch được tạo nên bởi xung đột kịch. Xung đột kịch bắt nguồn từ xung đột của đời sống nhưng là những xung đột được chọn lọc. Đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt, có tính phổ quát được chắt lọc từ những mâu thuẫn của đời sống: mâu thuẫn giữa con người với thời đại, con người với con người, giữa tốt - xấu, thiện - ác trong xã hội và trong chính mỗi con người. Xung đột bao gồm xung đột bên ngoài (giữa nhân vật này với nhân vật khác, nhân vật với gia đình dòng họ…) và xung đột bên trong (nội tâm, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật). (giải thích)

Xung đột kịch thể hiện qua hành động kịch. Mỗi hành động kịch là một bước của xung đột. Xung đột được phát triển lần lượt qua năm bước: giao đãi, phát triển, cao trào, đột biến, mở nút.

Biến cố của toàn bộ cốt truyện được phát triển theo năm bước, hành động kịch cũng vậy. Và trong một hồi kịch, thông thường cũng có đủ năm bước đó. Nên có thể dễ dàng nhận thấy, một vở kịch là tập hợp nhiều quy trình năm bước của sự phát triển và giải quyết mâu thuẫn.

3. Nhân vật là hình tượng trò diễn

Kịch là nghệ thuật thể hiện hình tượng con người một cách sống động nhất, nhưng trong cuộc đời thực, người bình thường không thể nói to trước đám đông những toan tính xấu xa, những dục vọng thấp hèn của mình giống như các nhân vật trên sân diễn. Cho nên, hình tượng con người trong kịch cũng thuộc loại hình tượng mang tính ước lệ cao nhất.

Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch được cụ thể hóa bằng chất liệu riêng. Tuy kịch bản không có nhân vật người kể chuyện, không cho tác giả tự do can thiệp, mách nước cho độc giả, vì kịch bản viết ra không phải để đọc mà là để diễn trên sân khấu. Khi viết kịch bản, chất liệu quan trọng nhất mà nhà văn có thể sử dụng để xây dựng hình tượng nhân vật là lời thoại.

-> Qua lời đối thoại và độc thoại, bằng thoại, nhân vật kịch cất lên tiếng nói tự biểu hiện, tự bộc lộ thế giới nội tâm.

Vai trò của nhân vật kịch thường mang tính chất đơn nhất và hay bị đồng nhất với vai tính cách. Cho nên, thể hiện tính cách của nhân vật kịch vẫn là nhiệm vụ quan trọng của các vai diễn trên sân khấu.

4. Ngôn ngữ kịch giàu tính hành động, cá tính hóa, giàu ẩn ý, giàu chất trữ tình

Ngôn ngữ nhân vật đảm nhiệm nhiệm vụ thúc đẩy xung đột kịch, triển khai tình cảnh kịch, hiển thị tính cách nhân vật (GT). Vì thế yêu cầu ngôn ngữ kịch phải có tính hành động, cá tính hóa và giàu ẩn ý.

Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện, chỉ có lời chú thích trực tiếp của tác giả, trước hết là nhằm nêu rõ thời gian, đặc điểm, bối cảnh của câu chuyện hoặc để nói rõ các hành động không lời của nhân vật. Những lời dẫn ấy chỉ có giá trị với người đọc, đạo diễn, diễn viên, còn trong lúc trình diễn chỉ có lời của nhân vật. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm kịch có ba dạng: ngôn ngữ đối thoại (lời các nhân vật nói với nhau), ngôn ngữ độc thoại (lời nhân vật nói với chính mình, lời nói thầm của nhân vật) và ngôn ngữ bằng thoại (lời nhân vật nói riêng với khán giả).

Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ có tính hành động, có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao tác hành động, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lý thích hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu. Ngôn ngữ kịch là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống (GT): súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Ngôn ngữ kịch mang tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật.

Trong kịch, thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Kịch khai thác triệt để chức năng hành động của lời nói, cho nên đây là đặc điểm thể hiện bản chất thể loại của ngôn ngữ kịch. Chức năng hành động của lời nói bộc lộ đầy đủ nhất trong lời đối thoại của các nhân vật. Trong đối thoại, muốn lời thoại trở thành hành động có kịch tính, mỗi lời nói phải bộc lộ một mục đích, một khuynh hướng ý chí. Triệt để khai thác chức năng hành động của lời thoại, kịch sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện hữu hiệu để khắc họa tính cách. Hơn nữa, trong kịch, tính cách nhân vật là một cấu trúc phức tạp. Trong tính cách vừa có yếu tố thuộc tâm lý, tình cảm, tính khí, khí chất, vừa có yếu tố thuộc tư tưởng, quan niệm, vừa có yếu tố thuộc về cá tính cá nhân, vừa có yếu tố thuộc về cái chung, cái xã hội.

5. Kết cấu phân hồi, màn, cảnh là đặc trưng của bố cục kịch

Hình thức kết cấu của văn học kịch là phân màn phân cảnh. Do bị giới hạn không gian và thời gian của sân khấu biểu diễn (GT) nên kịch tồn tại mâu thuẫn giữa không gian vô hạn của bối cảnh cuộc sống mà nó phản ánh với sự hữu hạn của sân khấu, giữa thời gian vô hạn liên tục của tình huống kịch với thời gian hữu hạn của thực tế diễn xuất. Biện pháp để giải quyết mâu thuẫn này là phân màn phân cảnh. "Màn" là một giai đoạn lớn trong sự phát triển của tình tiết kịch, "cảnh" là một giai đoạn nhỏ của tình tiết kịch, có màn một cảnh, có màn nhiều cảnh.

Phân màn phân cảnh một mặt có thể làm nổi bật kịch càng tập trung chặt chẽ, mặt khác có thể giảm thiểu đầu mối và chi tiết vụn vặt, có lợi cho sự nắm bắt của khán giả. Phân màn, phân cảnh có hai loại cụ thể không giống nhau. Một là lấy sân khấu làm không gian cố định tương đối, chọn lấy biện pháp phân màn phân cảnh, cắt lấy mặt ngang của cuộc sống, lấy xung đột kịch đặt trong bối cảnh riêng để biểu hiện, thời gian phát sinh của tình tiết trong một màn hoặc cảnh và thời gian biểu diễn tình tiết đó đại thể hợp thành một. Mỗi màn, cảnh của vở kịch thường có nội dung hoàn chỉnh cho một sự việc, một vấn đề, một tình huống. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của kịch so với tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình. Vì vậy, mỗi trích đoạn của kịch bản có thể được đọc như một văn bản hoàn chỉnh về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.

Hành động kịch: đó là sự tổ chức cốt truyện nhân vật, tình tiết, diễn cố theo một diễn biến chặt chẽ, nhất quán. Hành động kịch do các nhân vật kịch thực hiện, trong quá trình đó nhân vật bộc lộ đặc điểm, tính cách của mình.

III. Phân loại kịch:

Căn cứ vào hình thức thể hiện và ngôn ngữ trình diễn của kịch, người ta chia kịch thành kịch hát (ca kịch, các nhân vật hát lời kịch; các vở tuồng, chèo, cải lương của Việt Nam được xếp vào kịch hát); kịch thơ (các nhân vật đọc, ngâm lời kịch viết bằng thơ); kịch nói (các nhân vật đối thoại bằng lời nói); kịch câm; nhạc kịch, vũ kịch; kịch rối.

Căn cứ vào tính truyền thống hay hiện đại, có thể chia kịch thành kịch dân gian (chèo, tuồng, cải lương,…); kịch cổ điển (trước thế kỷ XX) và kịch hiện đại (từ thế kỷ XX).

Nhưng suy cho cùng, cách phân loại phổ biến nhất vẫn là căn cứ vào tính chất của xung đột kịch, vào lý tưởng, mục đích xã hội của cuộc đấu tranh mà nhân vật trung tâm theo đuổi, hiệu ứng tâm lý tạo ra đối với khán giả, nhân vật, tội lỗi, hành động. Theo đó, người ta chia thành các thể: bi kịch, hài kịch và chính kịch (kịch drama).

Nghệ thuật kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, là hình thức nghệ thuật thông qua diễn xuất trên sân khấu, tình cảnh cuộc sống được phản ánh trong kịch trực tiếp biểu hiện trước mắt công chúng. Đặc điểm của kịch là: có tính sân khấu, tính trực quan, tính tổng hợp, tính tham dự của công chúng,...

1. Đặc trưng thể loại của bi kịch

Bi kịch là một thể loại văn học được bàn đến rất sớm, từ thời cổ đại và được nhà thi pháp học đầu tiên của nhân loại là Aristote coi là một thể loại tiêu biểu của kịch, với tư cách là một trong ba thể loại của Thi ca, "bi kịch là dạng cao nhất của Thi ca".

Bi kịch ra đời ở Hy Lạp vào cuối thế kỉ VI trước Công nguyên và sớm có những tác phẩm có giá trị. Một tác phẩm được coi là bi kịch đích thực cần phải đảm bảo những nguyên tắc rất khắt khe về ba phương diện cơ bản: nhân vật, xung đột bi kịch và lỗi lầm bi kịch.

Có thể hiểu: Bi kịch là loại vở diễn phản ánh xung đột gay gắt giữa những nhân vật tươi sáng, trong trẻo, cao thượng, có phẩm chất tốt đẹp, có tinh thần hướng đến cái tiến bộ với những thế lực đen tối, thâm hiểm, độc ác, cuối cùng dẫn tới sự thảm bại hay cái chết của nhân vật chính. Bởi vậy, bi kịch là khúc tráng ca của những người anh hùng.

Cốt truyện bi kịch

Cốt truyện bi kịch là tiến trình của các sự việc, biến cố trong câu chuyện kịch được tổ chức tạo nên sự phát triển xung đột, cũng như sự phát triển hành động và tính cách các nhân vật. Đó thường là một chuỗi các sự kiện dẫn đến những tổn thất, đau thương trong cuộc đời nhân vật chính (từ đỉnh cao danh vọng, quyền uy, hạnh phúc,... đến cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật). Kết thúc bi kịch của các nhân vật có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm từ phía người đọc.

Xung đột bi kịch là kết quả của mâu thuẫn không thể hòa giải

Do tính chất đặc biệt của sự phản ánh, kịch lấy xung đột làm nội dung phản ánh. Nghệ thuật kịch bao giờ cũng phản ánh đời sống trong một quá trình nhất định, ở trạng thái khách quan, dưới dạng trực tiếp, cụ thể sinh động như đang diễn ra trước mắt người xem. Nó hoàn toàn khác hẳn với hội họa, điêu khắc, chỉ phản ánh cuộc sống tập trung

trong một khoảnh khắc nhất định; Nó cũng không giống với âm nhạc và thơ trữ tình lấy việc phản ánh tâm trạng, tình cảm của con người trước một sự kiện nào đó làm nội dung chủ yếu. Chính tính chất đặc biệt ấy buộc nghệ thuật kịch phải chọn những chất liệu có tính chất động làm cơ sở cho nội dung kịch, nghĩa là nó phải phản ánh cuộc sống trong sự vận động của nó. Mà đã nói tới vận động là không thể không nói tới xung đột.

Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. Thực tế trong sự vận động của hình tượng thơ cũng có bộc lộ mâu thuẫn giữa những trạng thái tình cảm khác biệt của cảm xúc: Vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ. Trong các các phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, yếu tố mâu thuẫn tồn tại ngay trong sự vận động của cốt truyện và trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột mang một sắc thái thẩm mĩ khác.

Mâu thuẫn trong bi kịch là mâu thuẫn giữa con người với sự phi lí của xã hội; mâu thuẫn giữa con người với chính bản thân mình. -> Vì vậy xung đột trong bi kịch là mối xung đột gay gắt, quyết liệt, không thể hòa giải. Xung đột ấy chỉ được giải quyết khi tác phẩm kết thúc với sự thất bại của nhân vật chính. Sự thất bại của người anh hùng hoặc của người tốt trong bi kịch khiến cho khán giả thương cảm và thanh lọc tâm hồn, khiến họ tiếc nuối mà hướng đến cái cao cả, điều đó khiến cho bi kịch có khả năng mà Aristote gọi là “sự tẩy rửa”.

Xung đột có ý nghĩa rất quan trọng trong tác phẩm bi kịch. Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm xác lập lên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch. Nó chính là mấu chốt của vấn đề. Thiếu xung đột tác phẩm kịch sẽ mất đi đặc trưng cơ bản đầu tiên của thể loại, sẽ là những “vở kịch tồi”. Mâu thuẫn, xung đột trong bi kịch khác biệt lớn so với chính kịch và hài kịch. Nó là mâu thuẫn mang tầm quốc gia, dân tộc, hoặc là những mâu thuẫn nợ chồng chất lên mâu thuẫn kia và không thể hòa giải, chỉ có thể hóa giải bằng cái chết của nhân vật trung tâm. Hăm-lét (trong vở Hăm-lét của Sếch-xpia), Ô-ten-lô (trong Ô-ten-lô của Sếch-xpia), Phéc-đi-năng và Luy-dơ (trong Âm mưu và tình yêu của Si-le), Rô-mê-ô và Juliet (trong Romeo và Juliet của Sếch-xpia)... đều là nhân vật chính diện, nhân vật trung tâm của vở kịch và đều phải chết. Và chỉ cái chết của họ mới có thể hóa giải được xung đột của tác phẩm. Còn trong chính kịch, hài kịch, xung đột có thể hòa giải mà không ai phải chết. Nếu chết, thì đó thường là cái chết của kẻ xấu thể hiện sự thất bại của cái tiêu cực, cái xấu, cái ác.

Trong đoạn trích “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng, xung đột cơ bản trong kịch “Bắc Sơn” là xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù. Xung đột cơ bản ấy được thể hiện thành những xung đột cụ thể giữa các nhân vật và trong nội tâm của một số nhân vật (Thơm, bà cụ Phương). Xung đột kịch diễn ra trong chuỗi các hành động kịch có quan hệ gắn kết với nhau. Trong hồi bốn, xung đột giữa cách mạng và kẻ thù được thể hiện trong đối đầu giữa Ngọc cùng đồng bọn với Thái Cửu. Xung đột ấy lại diễn ra trong hoàn Cảnh cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, kẻ thù đang truy lùng những chiến sĩ cách mạng. Những xung đột ở hồi kịch này còn diễn ra ở nhân vật Thơm đã có bước ngoặt quyết định, khiến cô lựa chọn đứng hẳn về phía cách mạng.

Trong vở “Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ muốn ca ngợi những con người mạnh dạn đổi mới, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, để phát triển sản xuất, đem lại nguồn lợi, hạnh phúc cho mọi người. Tác giả tổ chức những chất liệu mà anh thu thập được trong cuộc sống thành xung đột giữa những người cùng sống trong một nhà máy. Một bên tiêu biểu cho loại người máy móc, bảo thủ như phó giám đốc Nguyên Chính, còn một bên là giám đốc Hoàng Việt đại diện cho cái mới, dám nghĩ dám làm. Thông qua cuộc đấu tranh đó mà khán giả tiếp thu được vở kịch theo những chiều hướng mà tác giả mong đợi.

Hành động bi kịch

Theo Arixtốt “Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm. Trong mối tương giao đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch. Tính kịch của tác phẩm nằm trong xung đột nhưng xung đột lại là yếu tố để giải tỏa mâu thuẫn nằm trong xung đột ấy.

Hành động trong bi kịch là hệ thống hành động của các nhân vật được tổ chức và kết nối lại, tạo nên sự phát triển của cốt truyện bi kịch. Hành động của các nhân vật bi kịch, cũng như hành động của nhân vật kịch nói chung, thường được phân thành hai dạng chính: các hành động bên ngoài (lời nói, cử xử, hoạt động) và hành động bên trong (sự chuyển biến nội tâm, các độc thoại nội tâm).

Hành động bi kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác phẩm tăng lên. Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là một chuỗi hành động liên tục, xoay quanh một trục xung đột. (GT)

Hành động kịch ở đây chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn khổ của một chỉnh thể nghệ thuật. Các cốt truyện bằng hành động ấy xoáy vào trung tâm xung đột diễn kịch theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả.Mọi hành động trong tác phẩm kịch dù trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên luật nhân quả. Hình thức nhân quả trực tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất là nguyên nhân sinh ra hành động thứ hai và có thể cho đến hết.

Trong thực tế hình thức nhân quả trực tiếp thường được dùng trong các kịch bản ca kịch dân tộc như Tuồng, Chèo, viết theo lối tự sự, có tuyến kịch rõ ràng,còn hình thức nhân quả gián tiếp lại được dùng trong các kịch bản nói, viết thành nhiều tuyến kịch, chồng chéo lên nhau, cùng song song phát triển. Mối quan hệ giữa hành động kịch và nhân vật kịch là trục chính để xác định tinh cách nhân vật, Dù ở dạng nào, nhân vật kịch cũng khẳng định bản chất của mình bằng hành động. Bao nhiêu tính cách là bấy nhiêu trăn trở, giằng xé dữ dội từ bên trong và được thể hiện bằng những hành động quyết liệt bên ngoài

Nhân vật bi kịch

Theo lịch sử phát triển của văn học kịch, quan niệm, đặc điểm thể loại bi kịch có nhiều sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của hiện thực xã hội. Nhân vật bi kịch cũng có sự thay đổi theo tiến trình hiện đại hóa của văn học kịch. Nhân vật chính của bi kịch thường có bản chất tốt đẹp, có khát vọng vươn lên và thách thức số phận, nhưng cũng có những nhược điểm trong hành xử hoặc sai lầm trong đánh giá. Nhân vật bi kịch đó có thể là các nhân vật anh hùng nhưng là người anh hùng chiến bại, có thể là những người tốt, có tài luôn cố gắng vượt lên để tốt hơn nhưng không gặp may mắn, thuận lợi. Khác với nhân vật trong chính kịch hay hài kịch, nhân vật bi kịch bao giờ cũng là người có phẩm chất anh hùng, có tài năng đặc biệt hoặc lí tưởng sống cao cả hơn người bình thường.

Có thể tìm thấy đặc điểm này ở hầu hết các tác phẩm bi kịch nổi tiếng. Những nhân vật anh hùng trong bi kịch cổ điển như Hăm-lét trong vở kịch “Hăm-lét” của W. Sếch-xpia,... là hình tượng tiêu biểu của người anh hùng chiến bại. Họ đều là những con người có tài năng, có tư tưởng vĩ đại hơn người, vượt lên trên thời đại nhưng cuối cùng vở kịch đều kết thúc bằng cái chết của những nhân vật trung tâm ấy. Họ chết để nói lên những vấn đề tư tưởng lớn, cái gì tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong cuộc sống và trong mỗi con người, làm cho tâm hồn con người được thanh lọc. Trong văn học nghệ thuật, bi kịch qua mỗi thời đại không ngừng vận động và đổi mới về hình thức và nội dung nghệ thuật.

Nếu không là người anh hùng, nhân vật bi kịch lại là những người tốt, thông thường ở các tác phẩm kịch hiện đại, đều có hoài bão, ước mơ... nhưng hoàn cảnh xã hội, thực tế cuộc sống cộng với sự cản trở của kẻ xấu, của hoàn cảnh sống đã khiến họ thất bại. Những phẩm cách, tài năng và cả bi kịch của nhân vật ấy đều nhận được sự ngưỡng vọng, sẻ chia, cảm thông của bạn đọc. Tiêu biểu cho nhân vật bi kịch kiểu này phải kể đến Trương Ba (trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”). Đó là con người có nhân cách nhưng do sự nhầm lẫn của Đế Thích khiến ông lâm vào hoàn cảnh “hồn một đằng xác một nẻo”. Cái kết thúc ấy tác động mạnh mẽ, tạo nên sức mạnh “thanh lọc”, “sự tẩy rửa” đối với người đọc, người xem. Từ đó tạo nên những thái độ, hành động tích cực,những tư tưởng nhân văn cao đẹp, những nhận thức đúng đắn về các vấn đề của cuộc sống. Trong văn học Việt Nam, có thể thấy trong truyền thuyết Trong Thủy – Mị Châu.Trương Chi, Hòn Vọng Phu Sau này trong Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) và Cung Oán Ngâm (Nguyễn Gia Thiều) cũng ít nhiều có sự xuất hiện của nhân vật bi kịch. Còn trong giai đoạn văn học nửa đầu thế kỷ XX, có thể đề cập đến sự thất vọng, chán chường, nỗi niềm thống khổ, nỗi bất hạnh của con người nhưng lại hiếm có những sáng tác được viết bởi cảm hứng bi kịch.

Lỗi lầm bi kịch

Theo Aristotle, người anh hùng của bi kịch là những người tốt, cao thượng nhưng đồng thời cũng có những chỗ yếu đuối tiềm tàng, điều đó dẫn đến những hành động, việc làm sai lầm. Và "bi kịch diễn tả những con người sa vào tình trạng bất hạnh không phải vì sự xấu xa của mình, mà là vì một lỗi lầm nào đó", đó là "tội lỗi bi kịch".

Trong tiến trình phát triển của văn học kịch, nhân vật bi kịch có sự mở rộng phạm vi. Bên cạnh những người anh hùng chiến bại, nhân vật bi kịch thường là những con người lương thiện, dũng cảm, anh hùng cao thượng, đấu tranh vì mục đích tốt đẹp, vì lý tưởng cao quý, nhưng điều kiện khách quan chưa cho phép thực hiện. Lỗi lầm bi kịch là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với chính kịch và hài kịch. Lỗi lầm của nhân vật bi kịch không phải là sai lầm nhỏ, sai lầm bình thường trong cuộc sống.

mà là những lỗi lầm của thời đại, của tư tưởng vĩ đại. Lỗi lầm của họ không phải là sai mà là do sinh nhầm thời, là do tư tưởng quá lớn, quá mới mẻ so với thời đại. Tư tưởng của họ khó được người cùng thời hiểu và chia sẻ. Và tất yếu họ thất bại, thất bại để chứng minh họ không sai. Vũ Như Tô (trong Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng) tài năng, tài hoa tuyệt đỉnh hơn người. Lỗi lầm của ông nằm ở việc xây Cửu Trùng Đài. Động cơ của ông không xấu khi ông muốn xây một công trình kiến trúc để lại cho muôn đời, tranh khéo với tạo hóa. Nhưng ông chết, Cửu Trùng Đài bị đốt phá bởi người dân chỉ thấy mặt hại của việc xây dựng mà không hiểu hết tâm tư của Vũ Như Tô, Đan Thiềm...(GT) Những người tốt, bản chất lương thiện như Trương Ba (trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ) không thể chấp nhận đánh mất mình để chỉ được sống.

Kết thúc bi kịch, nhân vật chính phải chấp nhận thiệt thòi, mất mát nhưng họ được là mình, không đánh mất mình. Như Romeo và Juliet, tuy cả hai đều phải chết nhưng họ chứng minh được mối tình đẹp của mình. Và tình yêu đẹp ấy đã hoá giải được mối thù của hai dòng họ. Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an ủi ta trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy. Bi kịch khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội và con người.

Hiệu ứng thanh lọc của bi kịch:

Những chấn động cảm xúc mạnh mẽ mà bi kịch gây nên trong tâm hồn khán giả là cơ sở tạo nên hiệu ứng thanh lọc của thể loại này. Thoạt tiên, bi kịch khiến khán giả thương xót trước số phận bi đát của một con người vốn dĩ cao quý, tốt đẹp và sợ hãi trước cái chết, trước những mất mát khủng khiếp. Tuy nhiên, sâu xa hơn, bi kịch khiến khán giả nhận ra, thức tỉnh và đồng cảm trước những giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa trong đời, đau đớn trước sự huỷ diệt những giá trị đó; và do vậy, họ có thể giải toả sự xót thương, nỗi sợ hãi thường tình, hướng tâm hồn tới cái cao cả, phấn đấu cho những sức mạnh tinh thần lớn lao.

Ngôn ngữ bi kịch

Ngôn ngữ bi kịch giàu chất sử thi, anh hùng ca. Bi kịch thường có những độc thoại, đối thoại độc đáo, ẩn chứa nhiều tư tưởng nhân sinh cao cả. Ngôn ngữ trong bi kịch giàu tính hàm ẩn, thường là ngôn ngữ phi thường, bất thường. Độc thoại, đối thoại trong bi kịch bộc lộ diễn biến tâm lý phức tạp, quyết liệt của nhân vật. Khi tìm hiểu ngôn ngữ bi kịch phải tìm đến những lớp nghĩa sâu xa của ngôn từ.

Khi nói về các yếu tố văn học, Giooc-ki đã coi “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Điều đó có nghĩa là không có ngôn ngữ sẽ không có văn học. Đối với nghệ thuật kịch, vai trò quan trọng đó của ngôn ngữ được nhiều tác giả kịch nổi tiếng thế giới công nhận. A.N. Axtropxki đã sáng lập ra nền kịch ở Nga thế kỉ XIX đã coi ngôn ngữ là điều kiện đầu tiên của tính nghệ thuật. So với các thể loại khác, hệ thống ngôn ngữ kịch mang tính đặc thù rõ rệt.

Ngôn ngữ nhân vật là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. So với hệ thống ngôn ngữ tự sự đây là điểm khác biệt rất rõ. Ngôn ngữ tác giả, biểu hiện trong các lời chỉ dẫn về hoàn cảnh, về nhân vật,… chỉ có giá trị hướng dẫn người đọc, diễn viên, đạo diễn, họa sĩ trong khi đọc kịch bản, còn khi dựng trên sân khấu chúng sẽ biến mất và nhường chỗ cho tiếng nói của họa sĩ trong các cảnh trí, cho ngôn ngữ hành động của diễn viên.

Ngôn ngữ nhân vật bao gồm hai hình thức chủ yếu là đối thoại và độc thoại. Mỗi hình thức ngôn ngữ sẽ giữ một chức năng riêng với khả năng phản ánh đặc thù.

Trong ngôn ngữ nhân vật, chúng ta chú ý nhiều đến ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại là sự đối đáp qua lại giữa nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại được coi là dấu hiệu đầu tiên của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ độc thoại được là tiếng nói của nhân vật chỉ nói với chính mình. Để nhân vật tự nói lên những uẩn khúc bên trong, các tác giả kịch nhằm khai thác chiều sâu tâm lý nhân vật. Khi trình diễn trên sân khấu, người ta có thể thay đổi màu sắc, ánh sáng, sử dụng tiếng vọng, hoặc tái hiện những hình bóng đã lùi vào quá khứ. Sân khấu hiện đại còn sử dụng thủ pháp đồng hiện: nhân vật tự phân thân để đối thoại cùng nhau như: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc hoạ tính cách.

Trong sân khấu kịch nói không sử dụng ngôn ngữ xa lạ với đời sống. Các nhân vật kịch đối đáp với nhau một cách tự nhiên giản dị theo cách đối thoại trong đời sống hằng ngày. Tuy nhiên sự giản dị, tự nhiên ấy không hề mâu thuẫn với những cách nói năng giàu ẩn ý, giàu hình tượng và triết lý sâu xa mà chúng ta thường bắt gặp trong các tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ kịch phải đạt đến trình độ điêu luyện. Tuy vậy tác phẩm kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô thiển cũng như những cách nói năng tự nhiên chủ nghĩa. Trong vở “Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ đã thể hiện rất rõ điều đó nên người đọc, người xem có thể tiếp thu được một cách dễ dàng nội dung đối thoại của các nhân vật.

Như vậy có thể thấy, cái khó của một vở kịch là đòi hỏi mỗi nhân vật phải tự biểu hiện tính cách bằng lời nói và hành động. Tài năng của một nhà viết kịch bộc lộ ngay trong khả năng vận dụng tối đa sức mạnh đặc biệt của ngôn ngữ hội thoại để cấu trúc tác phẩm và khắc họa hình tượng. Khi tìm hiểu tác phẩm kịch, người đọc, người xem phải nắm bắt được những đặc điểm cơ bản này để có thế tìm hiểu sâu vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.

2. Đặc trưng thể loại của hài kịch

Từ thời cổ đại, Aristotle quan niệm: “Hài kịch là sự tái hiện những người xấu, tuy nhiên, không có nghĩa là hoàn toàn độc ác xấu xa, mà chỉ có nghĩa cái đáng cười là một bộ phận của cái xấu; cái đáng cười chỉ là một sự sai lầm và xấu xí nào đó không gây thống khổ và không gây nguy hại cho ai cả; vì vậy để khỏi đi tìm ở đâu xa, ta xem ngay cái mặt nạ hài kịch: nó là một cái gì xấu xí kì quái, nhưng không biểu hiện sự đau khổ.”

Nhân vật trong hài kịch

Nhân vật trong hài kịch có thể là người ở mọi tầng lớp, từ vua quan, quý tộc đến thị dân, tiểu nông, kẻ giàu, người nghèo. Đó là những con người có tâm lí, tính cách, suy nghĩ, lối sống trái ngược, khác lạ, không phù hợp tạo nên những tình huống, những cách ứng xử hài hước, gây cười. Trong một số hài kịch, có những nhân vật tích cực thể hiện lí tưởng hoặc phê phán những vấn đề xã hội thông qua sự dí dỏm, châm biếm.

Tuy nhiên, nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực có nhiều thói hư tật xấu. Hài kịch là kịch dùng hình thức gây cười để chế giễu hoặc đả kích những thói xấu, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội.

Ở các nhân vật hài kịch, phẩm chất bên trong không tương xứng với vị trí thân phận của nó và do vậy, nó đáng là nạn nhân của tiếng cười. Tiếng cười hạ uy tín của nhân vật ấy và bằng cách này tiếng cười thể hiện sứ mệnh lí tưởng của mình. Phạm vi của hài kịchrất rộng, từ châm biếm chính trị đến hài hước vui nhộn nhẹ nhàng.

Đối tượng phê phán của hài kịch

Khác với cái bi, cái hài thuộc phạm trù thẩm mỹ tiêu cực. Đối tượng của cái hài thường là những hiện tượng lố lăng, kệch cỡm, những sự trống rỗng, hình thức, những kẻ xuẩn ngốc, hợm hĩnh,… Hài kịch là một hình thức nghệ thuật thể hiện cái hài của cuộc sống, qua đó phản ánh, phê phán cái xấu xa, cái hèn nhát, cái ti tiện, cái kệch cỡm trong xã hội. Với thái độ phê phán nhẹ nhàng và sâu cay, hài kịch có tác động rất lớn đến việc loại bỏ cái xấu xa, cái tiêu cực.

Hài kịch có hài kịch tính cách, hài kịch tình huống, hài kịch sinh hoạt, hài kịch trào phúng…. Trong hài kịch tình huống, nhân vật là trung tâm gây cười ở tính cách, phục trang, ngôn ngữ, hành động,… Tiếng cười trong hài kịch có tác dụng giải thoát cho con người khỏi những thói xấu, có tác dụng trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mỹ. Hài kịch có vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội ở mọi thời đại nhờ khả năng đấu tranh châm biếm, lên án cái ác, cái xấu. Hài kịch có khả năng tác động mạnh mẽ đến đông đảo quần chúng nhân dân nên có sức mạnh lan tỏa nhanh, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm lí xã hội. Nên lâu nay, hài kịch vẫn được sử dụng như một thứ vũ khí chiến đấu rất sắc bén của văn học nghệ thuật.

Xung đột trong hài kịch

Xung đột, hành động trong hài kịch là xung đột giữa các thế lực xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng, giả tạo bên ngoài. Tính hài được tạo ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật.

Cảm hứng chủ đạo trong hài kịch là châm biếm, phê phán, giễu nhại… để từ đó con người nhận thức mà tránh xa, bài trừ, lên án cái xấu. Bên cạnh giá trị giải trí, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo, giá trị đấu tranh xã hội của hài kịch được thể hiện khá sâu sắc và có tác động mạnh, rõ rệt tới xã hội.

Ngôn ngữ trong hài kịch

Ngôn ngữ của hài kịch thường đậm chất hài hước, châm biếm với thủ pháp nói quá, qua đó lột tả tính cách nhân vật, thể hiện thái độ phê phán đã kích những thói hư tật xấu, giễu nhại những trò rởm đời.

Ngôn ngữ trong hài kịch đậm chất gây cười. Hài kịch sử dụng rất nhiều thủ pháp gây cười bằng các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hàm ý, ngoa dụ, phóng đại, tương phản, tăng cấp, từ nhiều nghĩa, chơi chữ,… Ngôn ngữ trong hài kịch gần với ngôn ngữ đời sống, góp phần quan trọng thể hiện tính cách, bản chất của nhân vật. Tính chất hài hước, ý nghĩa hàm ngôn được thể hiện trong lời thoại của nhân vật.

3. Đặc trưng thể loại của chính kịch (kịch drama)

Chính kịch còn gọi là kịch, phản ánh những xung đột gay gắt nhưng không phải là hài, cũng chẳng phải là bi. “Chính kịch không mô phỏng cổ đại, không khai thác đề tài ở thần thoại truyền thuyết. Nó khai thác đề tài từ cuộc sống hiện tại đầy những dạng dở phù vân. Cuộc sống được thể hiện trong chính kịch là cuộc sống trần thế, cuộc sống của cái hàng ngày, thường ngày, đầy chất văn xuôi”. Xung đột trong chính kịch là những xung đột của những con người với những tính cách khác nhau, xung đột tâm lí của con người trong những cảnh ngộ, tình huống éo le của cuộc sống.

Là thể loại trung gian, có sự kết hợp giữa bi kịch và hài kịch. Nó vẫn phản ánh những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống hàng ngày nhằm hướng tới một sự khẳng định hoặc phủ định nào đó, tuy vậy có lúc sử dụng cả những nét bông đùa, hóm hỉnh, nhẹ nhàng, buồn vui lẫn lộn.

Nhân vật trong chính kịch

Các tác phẩm chính kịch có cốt truyện là những câu chuyện đời thường nên nhân vật của chính kịch là con người đời thường, có thể là người anh hùng, có thể là một người bình thường với đầy đủ nét tính cách tốt - xấu, với những trạng thái tâm lí đời thường, vừa điển hình, vừa cụ thể.

Bởi vậy, tâm lí, tính cách, hành động của nhân vật chính kịch có thể thay đổi theo hoàn cảnh và sự phát triển của tình huống, xung đột kịch. Nhân vật chính kịch thể hiện những trăn trở, hy vọng, suy tư của con người, những vấn đề có tính chất lí tưởng cách mạng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. Nhân vật trong chính kịch cũng có những người anh hùng nhưng đó là anh hùng của đời thường, thể hiện những lí tưởng sống chân chính.

Ngôn ngữ chính kịch

Gần với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường hơn bi kịch và hài kịch. Trong chính kịch có đủ các loại hình ngôn ngữ bằng thoại, đối thoại và độc thoại. Đặc biệt, độc thoại thường thể hiện được vai trò của mình trong việc thể hiện diễn biến tâm lí hay những đấu tranh nội tâm của nhân vật.

Với những đặc trưng loại thể riêng, văn bản kịch đòi hỏi có những phương pháp tiếp cận riêng phù hợp. Ngoài đặc trưng chung thuộc loại hình kịch, các tác phẩm thuộc các thể loại kịch khác nhau lại có đặc điểm riêng, khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Nếu không dùng hệ thống lí luận về thể loại ấy để phân tích, soi chiếu, tìm hiểu từng yếu tố xung đột, nhân vật, ngôn ngữ thì không thể có hướng tiếp cận đúng và đạt hiệu quả. Dựa trên các yếu tố mang tính đặc trưng loại thể để đọc hiểu văn bản kịch là định hướng đúng và cần được tuân thủ.