Dẫn chứng liên hệ Vợ chồng A Phủ với những tác phẩm nào? Liên hệ mở rộng bài Vợ chồng A Phủ là một phần không thể thiếu trong bài văn nghị luận văn học giúp bài viết của các thí sinh gây được ấn tượng với người đọc
Mục lục [Ẩn]
1. Liên hệ mở rộng nhân vật Mị
Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị đến nhân vật Đào trong Mùa lạc của Nguyễn Khải. Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Khải đã từng chia sẻ một quan điểm sâu sắc: "Ở đời này, không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy." Câu nói này không chỉ là triết lý sống mà còn phản ánh quan điểm sáng tác của ông, và có thể thấy rõ sự tương đồng trong tư tưởng giữa Tô Hoài và Nguyễn Khải.
Nếu như trong Mùa lạc, Nguyễn Khải thể hiện niềm lạc quan và hy vọng về một cuộc sống tươi đẹp sẽ hồi sinh trong tâm hồn những người lao động khi họ tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thì ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài lại mở ra một chân trời mới cho những nhân vật dám vượt ra khỏi những ranh giới mà cuộc sống chật hẹp đã giam cầm họ. Mị, với bản tính nhạy cảm và khát khao tự do, đại diện cho những con người đã phải chịu đựng những tháng ngày đau khổ, cam chịu trong số phận, nhưng lại luôn âm thầm khao khát được giải thoát khỏi cuộc sống tù túng đó.
Tô Hoài đã khéo léo khắc họa hình ảnh của Mị như một biểu tượng cho sức mạnh của tinh thần phản kháng. Sự dũng cảm và quyết tâm trong Mị không chỉ là hành động đơn thuần mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ đến những người phụ nữ khác, những người đang chịu đựng sự áp bức và bất công trong xã hội. Cả Tô Hoài và Nguyễn Khải đều khẳng định rằng cuộc sống có thể đổi thay, miễn là chúng ta có đủ sức mạnh để vượt qua những thử thách, ranh giới mà hoàn cảnh đặt ra. Điều này đã làm cho tác phẩm của họ trở nên sống động và sâu sắc hơn, góp phần khơi dậy trong người đọc niềm tin vào khả năng thay đổi số phận.
2. Dẫn chứng liên hệ mở rộng tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- “Tô Hoài, một nhà văn vĩ đại trong nền văn học hiện đại của Việt Nam, đã trải qua 95 năm cuộc đời với hơn 70 năm cống hiến không ngừng nghỉ cho nghệ thuật văn chương. Ông không chỉ là một nhà văn chuyên nghiệp mà còn là một tâm hồn nhiệt huyết, luôn bền bỉ sáng tác và để lại cho đời một kho tàng tác phẩm đồ sộ, phong phú về thể loại và nội dung.” (Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)
- “Ông được xem là cây đại thụ cuối cùng trong thế hệ các tác giả văn xuôi của thời kỳ Cách mạng, một biểu tượng không thể thiếu trong hành trình phát triển của nền văn học Việt Nam.” (Hà Minh Đức)
- “Bản chất của văn chương Tô Hoài không chỉ là sự phong phú trong nội dung mà còn nằm ở phong cách và bút pháp độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. Chất thơ trong tác phẩm của ông là kết quả của một đời gắn bó mật thiết với quê hương, với đất nước, thể hiện tình yêu thương sâu sắc và sự trân trọng đối với những con người lao động, những nhân vật mang đậm tâm hồn và tính cách của người Việt Nam.” (Hà Minh Đức)
- “…Thật đáng kinh ngạc rằng, dù phải đối mặt với những khắc nghiệt của cuộc sống, những thế lực tội ác dường như không thể tiêu diệt sức sống mãnh liệt trong con người. Dẫu trong cảnh khốn cùng, đói nghèo và nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm nhưng mạnh mẽ, mang trong mình một ngọn lửa hy vọng vẫn âm ỉ cháy.”
- “Khi nói về Mị, Tô Hoài đã bày tỏ lòng tâm huyết của mình rằng: ‘Số phận của cô không chỉ đơn thuần là một bi kịch mà còn là sự hồi sinh mạnh mẽ của con người. Sự hồi sinh ấy, sự tái sinh của một con người, chính là điều vô cùng quý giá và ý nghĩa trong cuộc sống này.’”
- “Thật khó để tìm một nhà văn thứ hai có khả năng miêu tả chân thực và tinh tế đến vậy những cung bậc cảm xúc phức tạp của Mị, một cô gái khao khát sống nhưng lại bị giam cầm trong sự tù túng của hoàn cảnh bi thương trong tác phẩm ‘Vợ chồng A Phủ’.” (Phan Anh Dũng)
- “Đất nước và con người miền Tây đã để lại cho tôi những tình cảm sâu sắc, những kỷ niệm không thể nào quên… Hình ảnh Tây Bắc, với những nỗi đau và lòng dũng cảm, luôn hiện hữu trong tâm trí tôi, trở thành những nét chấm phá sống động trong bức tranh tâm hồn tôi.” (Tô Hoài)
3. Liên hệ tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo
Thưởng thức tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Người đọc chẳng thể nào quên được hai nhân vật chính, linh hồn của câu chuyện, đó là Mị và Chí Phèo. Nhất là sự hồi sinh nhân tính trong tình huống truyện của họ.
Người ta thường nói, văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Và Tô Hoài, Nam Cao đã gặp gỡ, đồng cảm về tư tưởng, cốt cách. Đó cũng chính là tiếng lòng ấp ủ của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Dẫu trước đó, họ sống dưới vực thẳm của xã hội, nhưng chỉ cần tình người được đặt đúng chỗ. Thì bao nhiêu vẻ đẹp của tâm hồn đã được hồi sinh.
Nếu như Mị hồi sinh nhân cách trong đêm tình mùa xuân tràn ngập yêu thương. Thì Chí lại thức tỉnh nhân cách sau đêm gặp Thị Nở tại vườn chuối, với bát cháo hành ấm áp. Nếu như Mị chịu sự tác động của cảnh vật, sự vật để hồi tỉnh. Thì Chí lại nhờ vào tình người để đánh thức phần “người” đã ngủ quên trong anh bấy lâu.
Gấp lại truyên ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao. Ta thấy được giá trị nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn gửi gắm. Đọc vợ chồng A Phủ để liên hệ Chí Phèo và ngược lại. Dẫu cuộc sống, hoàn cảnh của hai nhân vật khác nhau. Nhưng sự hồi sinh về nhân cách lại mang vẻ đẹp tương đối giống nhau. Phải chăng, đó là tiếng lòng đầy thương cảm của tác giả dành cho những số phận hẩm hiu.
4. Liên hệ Vợ chồng A Phủ với tác phẩm Hai đứa trẻ
Tô Hoài là một trong những nhà văn vĩ đại của nền văn học Việt Nam hiện đại, có những đóng góp nổi bật và giá trị với phong cách nghệ thuật độc đáo, cuốn hút. Trong số nhiều tác phẩm của ông, Vợ chồng A Phủ có thể nói là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất, thể hiện sâu sắc tình cảm của tác giả dành cho những số phận đau khổ trong xã hội cũ. Đọc Vợ chồng A Phủ, độc giả không thể nào quên hình ảnh nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ, một khoảnh khắc đầy ý nghĩa và cảm động, phản ánh tinh thần đấu tranh và khát vọng tự do. Bên cạnh đó, thông qua nhân vật Mị, cùng với tâm trạng của chị em Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam, chúng ta càng hiểu rõ hơn về tình cảm của nhà văn đối với người lao động, những con người chịu đựng nỗi đau khổ và bất hạnh.
Mị, một cô gái con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, từ ngày về làm dâu đã phải sống trong cảnh tăm tối, bị áp bức và mất đi sức sống, như một cánh hoa tàn héo. Mỗi ngày trôi qua, Mị dường như trở thành cái bóng của chính mình, tê liệt hoàn toàn về mặt cảm xúc. Tuy nhiên, trong đêm định mệnh khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một sự thay đổi mạnh mẽ đã diễn ra trong tâm hồn Mị. Đó là khoảnh khắc mà sức sống tiềm tàng trong cô bỗng chốc trỗi dậy, làm cho cô nhận thức được tình cảnh bi thảm của chính mình.
Ban đầu, khi Mị thấy A Phủ bị trói, cô vẫn "thản nhiên ngồi sưởi lửa", phản ánh sự vô cảm của một người đã quen chịu đựng sự áp bức. Mị có lý do để cảm thấy như vậy; trong cái không khí ngột ngạt của nhà Pá Tra, sự tàn nhẫn đã trở thành điều bình thường. Nhưng sự thờ ơ ấy không kéo dài lâu. Khi Mị chứng kiến “dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen của A Phủ”, cô bỗng nhận ra sự đồng cảm sâu sắc với số phận của A Phủ, cũng như thương cho chính mình. Đó chính là khoảnh khắc đánh thức những cảm xúc ẩn giấu bấy lâu trong lòng Mị, khiến cô cảm thấy "chúng nó thật ác".
Có lẽ, trong suốt cuộc đời sống kiếp trâu ngựa, Mị chưa bao giờ biết đến yêu hay ghét, nhưng lúc này, cô bỗng nhận ra sự tàn nhẫn của nhà Pá Tra và nảy sinh ý định cứu A Phủ. Tuy nhiên, sự sợ hãi cũng len lỏi vào tâm trí Mị: “Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể đến một lúc nào, biết đâu A Sử chẳng đã trốn được rồi…”. Cảm giác sợ hãi về cái chết và sự trừng phạt từ nhà thống lý khiến Mị chùn bước. Nhưng, cuối cùng, tình thương đã chiến thắng nỗi sợ, dẫn dắt cô đến quyết định táo bạo: giải cứu A Phủ và bỏ trốn cùng anh. Hành động của Mị không phải là sự bộc phát nhất thời, mà là một quyết định hợp lý, phù hợp với sự phát triển tâm lý của nhân vật. Qua đó, Tô Hoài thể hiện tài năng miêu tả tâm lý nhân vật cũng như tấm lòng trân trọng đối với những người lao động nghèo khổ, bị áp bức trong xã hội cũ.
Bên cạnh Mị, chúng ta không thể không nhắc đến hình ảnh chị em Liên trong cảnh đợi tàu ở tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đối với Liên và những người dân phố huyện nghèo, việc chờ đợi chuyến tàu mỗi đêm đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Chị em Liên thức trắng đêm để chờ chuyến tàu từ Hà Nội về, với tâm trạng háo hức và hồi hộp. Chuyến tàu không chỉ đơn thuần là phương tiện giao thông, mà còn là biểu tượng của hy vọng và những ước mơ tốt đẹp mà họ khao khát. Ánh sáng từ chuyến tàu mang đến cho họ không chỉ ánh sáng vật chất mà còn ánh sáng của tương lai tươi sáng, của những điều họ luôn ao ước. Tâm trạng mong chờ của Liên thực chất là niềm khao khát mãnh liệt về một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn, một thế giới mà ở đó, họ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình yên.
Như vậy, cả Tô Hoài và Thạch Lam đều viết rất hay và độc đáo, phản ánh chân thực cuộc sống của những người lao động khốn khổ. Họ không chỉ miêu tả những khổ đau, mà còn thể hiện cái nhìn đồng cảm và sự trân trọng đối với những ước mơ giản dị, chân thành của con người. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại có những điểm khác biệt, tạo nên sự độc đáo riêng trong phong cách sáng tác của họ. Trong khi Thạch Lam thể hiện sự thương cảm, xót xa cho những con người mòn mỏi, khổ cực đang chờ đợi cuộc sống tốt đẹp hơn, Tô Hoài lại khám phá và khẳng định sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng và sự đấu tranh để tự giải phóng của những người lao động nghèo khổ.
Sự tương đồng trong cái nhìn của hai nhà văn đối với nhân vật xuất phát từ tấm lòng nhân đạo và tình yêu thương con người sâu sắc. Tuy nhiên, mỗi người vẫn giữ cho mình một phong cách riêng, phản ánh sự đa dạng trong văn học - lĩnh vực của sự sáng tạo, không cho phép sự lặp lại. Tóm lại, dù viết về những con người khác nhau và ở hai giai đoạn văn học khác nhau, nhưng qua cách xây dựng tâm trạng của Mị trong đêm giải cứu A Phủ và tâm trạng của chị em Liên trong cảnh đợi tàu, độc giả sẽ hiểu sâu sắc hơn về tấm lòng của nhà văn với những ước mong giản dị nhưng cao đẹp của con người trong xã hội xưa.
5. Liên hệ Vợ chồng A Phủ với tác phẩm nào?
1. “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân là hai truyện ngắn đều viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Em hãy phân tích hai truyện ngắn trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.
2. “Nghệ thuật vị nhân sinh” là giá trị nhân văn cao cả trong nghệ thuật. Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo là hai tác phẩm điển hình và thành công cho tư tưởng vĩ đại này. Qua việc so sánh sự hồi sinh của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và nhân vật Chí trong Chí Phèo, chúng ta sẽ thấy được sự thức tỉnh trong nhân tâm của hai nhân vật.
3. Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12 – Tập 2, NXB GD Việt Nam 2016). Từ đó, liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu (Hai đứa trẻ – Thạch Lam, Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD Việt Nam 2016) để nhận xét về cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.
6. Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh Trong “Vợ Chồng A Phủ” và “Chí Phèo”
Khái niệm “Nghệ thuật vị nhân sinh” thể hiện giá trị nhân văn cao cả trong văn học, phản ánh sâu sắc lòng yêu thương con người và sự quan tâm đến số phận của những người lao động. Hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Chí Phèo” của Nam Cao là những minh chứng tiêu biểu cho tư tưởng này. Qua việc so sánh sự hồi sinh của nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” và nhân vật Chí trong “Chí Phèo”, chúng ta có thể thấy rõ sự thức tỉnh trong nhân tâm của cả hai nhân vật, mặc dù họ đến từ những hoàn cảnh và bối cảnh khác nhau.
Mị, trong đêm giải cứu A Phủ, không chỉ là một người con gái trong tình thế bi đát mà còn là hình ảnh của một người phụ nữ đầy khát vọng sống, khát vọng yêu thương. Khi chứng kiến nỗi đau của A Phủ, Mị nhận ra sự tàn nhẫn của xã hội và từ đó, sức sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt. Hành động cắt đứt sợi dây trói A Phủ không chỉ là một hành động cứu người mà còn là sự giải phóng cho chính bản thân mình, đánh thức những cảm xúc đã ngủ quên bấy lâu.
Ngược lại, nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là biểu tượng cho những bi kịch của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Chí sống trong tăm tối, mất nhân tính và trở thành kẻ lưu manh. Tuy nhiên, trong những khoảnh khắc cuối cùng, khi nhận ra tình yêu và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp, Chí đã thức tỉnh. Hành trình tìm kiếm lại bản thân của Chí, từ một kẻ điên dại đến việc muốn khôi phục nhân tính, cho thấy sự mạnh mẽ và khát khao sống không bao giờ tắt trong tâm hồn con người.
Qua sự so sánh giữa hai nhân vật Mị và Chí, ta nhận thấy được sự tương đồng trong hành trình tìm lại bản thân và khát vọng sống. Dù ở những hoàn cảnh khác nhau, cả hai đều thể hiện sức mạnh tinh thần và ý chí đấu tranh cho hạnh phúc, cho tình yêu. Điều này cho thấy một thông điệp nhân văn sâu sắc mà hai tác phẩm muốn gửi gắm đến người đọc.
7. Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị và Tâm Trạng Của Hai Chị Em Liên
Nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ là một hình mẫu điển hình cho sức mạnh nội tâm và khát vọng tự do. Khi Mị quyết định giải cứu A Phủ, cô đã vượt qua mọi nỗi sợ hãi, đánh thức sức sống trong mình. Hình ảnh Mị cắt dây trói cho A Phủ không chỉ đơn thuần là hành động cứu người mà còn là sự giải phóng cho chính cuộc đời cô, một đời sống đầy ắp những đau khổ và tủi nhục. Từ một người phụ nữ tê liệt về cảm xúc, Mị đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và nghị lực.
Liên, trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, cũng là một nhân vật mang trong mình nhiều khao khát và ước mơ. Cảnh đợi tàu của chị em Liên không chỉ đơn thuần là sự chờ đợi mà còn chứa đựng những hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua sự cảm nhận của hai chị em về chuyến tàu, ta thấy được lòng trân trọng của nhà văn đối với những khát vọng giản dị và chính đáng của con người.
Từ việc phân tích tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ và của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu, người đọc có thể nhận thấy rõ sự đồng cảm và trân trọng của Tô Hoài và Thạch Lam đối với những số phận người lao động trong xã hội cũ. Cả hai nhà văn đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, khát khao khám phá và nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của con người, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tóm lại, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, cả Tô Hoài và Thạch Lam đều thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Qua những tác phẩm của họ, người đọc không chỉ hiểu thêm về số phận con người mà còn cảm nhận được giá trị nhân văn cao cả, khát vọng sống mãnh liệt và ước mơ về một tương lai tươi sáng hơn trong xã hội cũ.
8. Liên hệ mở rộng danh phận con dậu gạt nợ của Mị
Danh phận “con dâu gạt nợ” của Mị khiến ta liên tưởng tới thân phận “vợ nhặt” của thị trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Kim Lân.
– Đó đều là danh phận của những người vợ, người con dâu bất hạnh. Nếu như cuộc hôn nhân của Tràng và thị tuy không mâm cao cỗ đầy, tuy rất đỗi kì quặc vì chỉ bằng một lời chòng ghẹo vu vợ với bốn bát bánh đúc là “nên vợ nên chồng”. Dẫu vậy, suy cho cùng cuộc hôn nhân ấy còn được xuất phát từ sự tự nguyện của người phụ nữ (dù là cùng đường) và sự đồng thuận của người đàn ông (dù rằng sự đồng thuận ấy chi là “cái tặc lưỡi: “Chậc, kệ!”). Thì cuộc hôn nhân của Mị lại diễn ra do món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ để lại, sự ép gả vô nhân đạo của gia đình thống lí, do sự lừa lọc của A Sử – người mà sau này Mị phải gọi làm chồng.
– Không chỉ vậy, nếu như trong tác phẩm “Vợ nhặt” chuyện nhặt được vợ của Tràng tuy được diễn ra trong khoảng không gian vẫn lên mùi chết chóc nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống, khát vọng hồi sinh. Thì cuộc hôn nhân của Mị tuy diễn ra vào đêm tình mùa xuân thấm đẫm chất thơ của Tây Bắc nhưng cuộc hôn nhân ấy lại đưa cô vào chốn “địa ngục trần gian”
=> Có thể thấy, dẫu đều là những con người nghèo khổ, bất hạnh song số phận của Mị có lẽ còn chua chát, cùng cực hơn thị rất nhiều lần.
👉 Trên đây là một số liên hệ so sánh Vợ chồng A Phủ, dẫn chứng liên hệ mở rộng Vợ chồng A Phủ với các tác phẩm khác để các em có thể lồng ghép vào bài làm giúp làm rõ vấn đề cần phân tích, bàn luận.