BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt" chứa đựng nỗi xót xa cho hoàn cảnh éo le của gia đình, nhưng đồng thời cũng thể hiện niềm hy vọng mong manh về tương lai. Đó là biểu tượng của tình thương, sự lo lắng và lòng nhân ái giữa cơn đói khổ.

Kim Lân, nhà văn được mệnh danh là “con đẻ của đồng ruộng”, nổi tiếng với lòng trung thành và đam mê dành cho những giá trị thuần hậu nguyên thủy của người Việt Nam. Xuất hiện vào cuối giai đoạn văn học hiện thực 1930-1945, ông mang một màu sắc riêng biệt so với các tác giả cùng thời. Tác phẩm tiêu biểu và nổi bật nhất của Kim Lân trong giai đoạn này là truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962. Tác phẩm này là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, ca ngợi tình người và tình mẫu tử, đồng thời trân trọng khát vọng sống và hạnh phúc của người nông dân nghèo. Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện là đại diện cho vẻ đẹp của người mẹ Việt Nam truyền thống. Mặc dù không được miêu tả chi tiết về chân dung, nhưng qua hai lần bà rơi nước mắt khi Tràng dẫn vợ về, người đọc cảm nhận được tình yêu con vô bờ bến của bà.

Từ nhỏ, Kim Lân đã phải bôn ba khắp nơi, làm nhiều công việc khác nhau như thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong để mưu sinh. Chính vì thế, ông thấu hiểu được nỗi vất vả, khổ cực của những người lao động nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp với thể loại truyện ngắn và năm 1945, viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Do mất bản thảo, ông dựa trên cốt truyện cũ để sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”, tác phẩm mang sức nặng tư tưởng của cả cuốn tiểu thuyết. Với biệt tài viết truyện độc đáo, ông khắc họa thành công từng nhân vật, từ đó làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân. Ông không chỉ thành công trong việc tạo dựng mạch cảm xúc, diễn biến tâm lý của nhân vật mà còn xuất sắc trong việc xây dựng các chi tiết nghệ thuật. Chi tiết hai lần bà cụ Tứ khóc là điểm sáng thẩm mỹ cho truyện ngắn “Vợ nhặt”, như “hạt bụi vàng của tác phẩm”.

Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là sự xót thương của Kim Lân cho những con người với số phận bé mọn, mà còn là sự tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến lạc hậu thời bấy giờ. Đây thực sự là điểm nhấn nghệ thuật của tác phẩm. Bà cụ Tứ là bà mẹ nghèo, già nua, sống cùng con trai tên là Tràng. Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện lần đầu ở giữa tác phẩm, với dáng đi “lom khom”, chậm chạp, vừa đi vừa “ho húng hắng”. Từ chân dung, ngoại hình của bà, ta thấy như hiện ra cuộc đời của một người phụ nữ tần tảo, yêu thương con vô bờ bến và chai sạn vì những khổ đau trong quá khứ.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, khi Tràng nghèo khổ, xấu xí, ngờ nghệch tình cờ “nhặt” được vợ. Trong buổi chiều tối sầm vì đói khát và chết chóc, Tràng đưa cô “vợ nhặt” về nhà. Trước tình huống éo le, bà cụ Tứ có cách ứng xử khéo léo và dòng chảy suy nghĩ phức tạp. Khi gặp cô vợ nhặt, bà không khỏi bất ngờ và hàng loạt câu hỏi hiện ra trong đầu. Đến khi Tràng thưa chuyện, bà mới vỡ lẽ và bao suy nghĩ ào ạt ập tới. Cuối cùng, bà lão “cúi đầu nín lặng”, khéo léo, độ lượng mà bao dung chấp nhận người dâu mới. Đây là trái tim của một người mẹ nhân hậu, hết lòng yêu thương con và là trí tuệ của một người từng trải.

Trong lòng bà cụ Tứ lúc này, nỗi ai oán, xót thương và lo lắng dành cho các con dâng trào. Bà xót thương cho con trai mình với biết bao sự thiệt thòi và lo lắng cho cả người con dâu. Những cảm xúc này tích lại thành dòng nước mắt “rỉ xuống” qua kẽ mắt “kèm nhèm”. Giọt nước mắt này biểu hiện nỗi đau khổ, tủi phận và lo lắng cho hai con, nhưng cũng có sự vui mừng khi con trai bà có được vợ. Kim Lân miêu tả tinh tế dòng nước mắt của bà cụ Tứ, chỉ “rỉ xuống” vì cả cuộc đời bà đã khóc cạn nước mắt. Giọt nước mắt lúc này có lẽ là cảm xúc lắng đọng của gần một đời người.

Sau khi chấp nhận chuyện hôn nhân éo le của hai con, bà cụ Tứ an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Dù cuộc hôn nhân này dựa trên sự bấu víu, chắp vá, bà vẫn trân trọng, yêu thương người con dâu “nhặt” được. Bà nhắc đến chuyện làm mâm cỗ cưới để cúng tổ tiên, ra mắt mọi người, mong ước có thể xác nhận đây là con dâu của bà, vợ của Tràng. Mong muốn chân tình này cho thấy người mẹ nghèo sâu sắc, tinh tế và vô cùng bao dung, nhân hậu. Bà chỉ mong hai con yêu thương, sống hạnh phúc với nhau.

Thế nhưng, niềm vui chẳng được bao lâu, bà lại bị bủa vây bởi những nỗi lo và mặc cảm về số phận. “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, bà lo lắng và xót thương đến đứt ruột. Bao cảm xúc dồn nén trong chữ “thương” và giọt nước mắt lại một lần nữa tuôn rơi. Không còn “rỉ xuống” mà “chảy xuống ròng ròng”, thể hiện sự xót xa dâng trào và lo lắng trong lòng người mẹ. Bà thương và cảm thấy có lỗi với con khi không thể lo nổi cho con một mâm cỗ cưới đàng hoàng. Hình ảnh này thể hiện sự xót xa và hờn tủi của bà. Kim Lân sử dụng ngôn ngữ kể, tả rất đời thực, nhưng vẫn thành công trong việc xây dựng dòng chảy tâm lý và nét tính cách của nhân vật.

Thông qua hai chi tiết, Kim Lân đã khéo léo gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình. Tác phẩm “Vợ nhặt” khẳng định chủ đề tư tưởng: trong cái đói xơ xác, tình yêu thương, sẻ chia, đùm bọc, khát khao hạnh phúc gia đình và niềm hi vọng vào tương lai luôn rực cháy. Nhà văn đã miêu tả chân thực và cảm động cuộc đời và số phận con người Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Không miêu tả chi tiết ngoại hình, tính cách của bà cụ Tứ, nhưng qua dòng chảy nội tâm, dáng vẻ, cử chỉ, hành động, hình ảnh bà hiện lên chân thực và sắc nét. Chi tiết giọt nước mắt cho thấy sự am hiểu, tinh tường của Kim Lân trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Ông xây dựng thành công tình huống éo le và các chi tiết nghệ thuật đặc sắc, điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.

M. Gorki từng nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Kim Lân xứng đáng là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam khi từ những chi tiết nhỏ bé và sâu sắc, ông đặt cả tài năng và tấm lòng nhân đạo của mình vào đó. Thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” còn nhờ lối kể chuyện lôi cuốn, ngôn từ giản dị, phù hợp với mọi lứa tuổi. Vì thế, “Vợ nhặt” vẫn để lại dư âm khó phai mờ trong lòng người đọc nhiều thế hệ.