Trong kho tàng truyền thuyết của nước ta, có rất nhiều câu chuyện hấp dẫn về những anh hùng mang màu sắc kỳ bí và huyền ảo. Những anh hùng này vốn có thật trong lịch sử, nhưng được điểm tô thêm bằng các yếu tố kỳ ảo và tưởng tượng, dần dần trở thành những vị thần, vị thánh.
1. Dàn ý kể lại câu chuyện “Thánh Góng”
Mở bài: (giới thiệu chung).
- Câu chuyện xãy ra vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, Bắc Ninh (nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
- Cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được nhân dân suy tôn là Thánh Gióng.
Thân bài: (diễn biến câu chuyện).
a. Việc mang thai và sinh nở của bà mẹ.
- Hai vợ chồng già không có con.
- Một hôm bà ra đồng thấy vết chân lạ rất to, liền đặt bàn chân vào ướm thử.
- Bà thụ thai, sinh ra một đứa con trai khôi ngô tuấn tú.
- Nhưng cậu bé không biết đi, không biết nói, không biết cười.
b. Nhà Vua tìm người tài giúp nước.
- Giặc Ân xâm lược nước ta.
- Vua sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
- Cậu bé chợt cất tiếng nói, bảo mẹ mời sứ giả vào nhà, nhờ sứ giả tâu với Vua, cấp cho mình áo giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để đánh giặc ngoại xâm.
- Lúc bấy giờ cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không no.
- Dân làng cùng góp gạo nuôi câu bé..
c. Câu bé đánh đuổi giặc ngoại xâm.
- Sứ giả mang mọi thứ đến.
- Cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, cỡi ngựa sắt xông pha đánh đuổi quân thù.
- Roi sắt gãy cậu nhổ tre đánh tiếp.
- Khi đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ cởi áo giáp sắt bỏ lại, cỡi ngựa bay lên trời.
Kết bài: (Kết thúc câu chuyện)
2. 5 Mẫu kể lại câu chuyện “Thánh Góng” chọn lọc
Kể lại câu chuyện “Thánh Góng” học sinh giỏi - Mẫu số 1
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh bắc Ninh, có hai vợ chồng già chăm chỉ làm ăn, nhân hậu, phúc đức. Họ luôn ao ước có một đứa con cho vui cửa vui nhà, mong mãi mà chẳng được.
Một hôm bà ra đồng, thấy một vết chân rất to khác thường. Thấy lạ bà tò mò đặt chân ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng sinh hạ được một cậu con trai bụ bậm, khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng mừng lắm! thầm cảm ơn Trời Phật đã ban phúc cho gia đình. Nhưng khổ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết đi, không biết nói, không biết cười, đặt đâu nằm đó. Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lượt bờ cõi nước ta. Nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài cứu nước. Nghe tiếng rao của sứ giả, cậu bé đang nằm trên chiếc chõng tre chợt cất tiếng nói. Mẹ hãy ra ngoài mời sứ giả giúp con. Bà mẹ ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Khi sứ giả vào, cậu bé bảo sứ giả về tâu với vua, cấp cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt để cậu đánh giặc ngoại xâm. Sứ giả vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ, vội vã quay về kinh đô tâu với vua. Vua liền triệu tập tất cả các thợ rèn giỏi, ngày đêm làm những thứ cậu bé yêu cầu. Điều kỳ lạ, sau khi gặp sứ giả cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc đã chật cứng. Hai vợ chồng già làm việc vất vả không đủ gạo nuôi con. Bà con hàng xóm thấy hoàn cảnh như thế, cùng nhau góp gạo nuôi cậu bé. Dân làng ai cũng mong cậu bé chóng lớn, khỏe mạnh đi đánh giặc cứu nước. Giặc Ân kéo đến núi Trâu, Đất nước lâm nguy, ngàn cân đeo sơi tóc. Ai cũng lo lắng sợ sệt. Vừa lúc đó sứ giả mang áo giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt tới. Cậu bé bỗng vùng dậy, vươn vai một cái biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, cõi ngưa sắt phi thẳng ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng sĩ quất tơi bời quân giặc. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Để tưởng nhớ công lao của tráng sĩ, Vua phong cho tước hiệu là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ. Từ đó đến nay, hăng năm cứ đến tháng tư làng mở hội Gióng để tri ân người anh hùng cứu nước. Dấu ấn năm xưa còn để lại trong màu vàng óng của những bụi tre đằng ngà. Những dãy ao hồ liên tiếp nhau chính là vết chân ngựa sắt thuở nào. Truyền thuyết kể rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu rụi cả một làng, gọi đó là làng cháy.
Kể lại câu chuyện “Thánh Góng” học sinh giỏi - Mẫu số 2
Vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, người vợ ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ướm chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi qua, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm, đặt tên con là Gióng. Nhưng lạ thay, đứa trẻ đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đó, khiến cho vợ chồng ông vô cùng lo lắng.
Bấy giờ giặc Ân thế mạnh vô cùng, tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài đứng ra cứu nước. Đứa bé nghe được tiếng loa của sứ giả bỗng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con". Nghe được tiếng con, bà lão mừng rỡ chạy ra mời sứ giả theo lời con nói. Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua chuẩn bị cho ta một con ngựa sắt, một cái gậy sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này." Sứ giả nghe thấy thì lấy làm kinh ngạc vô cùng và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với nhà vua. Nhà vua ngay lập tức chấp thuận yêu cầu của cậu bé và sai người ngày đêm làm ra những đồ vật ấy.
Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo mới mặc đã chật. Hai vợ chồng không đủ gạp để nuôi con liền được bà con xóm làng giúp đỡ, họ xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi lớn Gióng.
Lúc này, giặc Ân đã đến núi Trâu, tình thế đất nước vô cùng nguy cấp. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc đó, sứ giả mang đủ những thứ mà Gióng đã dặn. Cậu bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng gậy sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí, quất tan tác vào lũ giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa phi lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt rồi bay thẳng lên trời.
Từ đó, để tưởng nhớ công đánh tan giặc Ân xâm lược, nhà vua phong cho tráng sĩ làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.
Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư, dân làng mở hội linh đình để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng và để nhắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp,...
Kể lại câu chuyện “Thánh Góng” học sinh giỏi - Mẫu số 3
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức, nhưng lại vẫn chưa có lấy một mụn con.
Một ngày kia, người vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai, đến mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm hạnh phúc to lớn nên hai ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng hiểu sao đến khi ba tuổi, cậu bé vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu thì nằm đó.
Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta và gây ra bao nhiêu tội ác. Thế giặc mạnh, nhà vua lo lắng sai sứ giả đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:
- Ai có tài xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, bỗng nhiên cậu bé Gióng cất tiếng nói:
- Mẹ ơi, mẹ mau mời sứ giả vào đây cho con.
Gặp được sứ giả, Gióng liền yêu cầu sứ giả tâu với vua chuẩn bị gậy sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để đi đánh giặc. Sau khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Mọi người trong làng đều chung tay nuôi Gióng, hy vọng cậu bé lớn nhanh đi giết giặc cứu nước.
Lúc này, giặc đã đến sát chân núi Trâu. Nhận được đồ dùng từ sứ giả, cậu bé bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo gáp, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa phi thẳng tới chiến trường. Bằng sức mạnh như của ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì gậy sắt gãy, cậu bèn nhổ bụi tre bên đường làm vũ khí quật vào lũ giặc. Quân giặc sợ hãi bỏ chạy tán loạn.
Dẹp giặc xong, Gióng không quay về kinh ban thưởng mà cởi bỏ áo giáp, một người một ngựa bay thẳng lên trời. Từ đó, vua nhớ công ơn, phong tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ mãi về sau.
Kể lại câu chuyện “Thánh Góng” học sinh giỏi - Mẫu số 4
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở láng Gióng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Thuở ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.
Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.
Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Kể lại câu chuyện “Thánh Góng” học sinh giỏi - Mẫu số 5
Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.
Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.
Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.
Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.
Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.