BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Không gian nhân tính trong "Chí Phèo" của Nam Cao được thể hiện qua hình ảnh làng quê và những mối quan hệ con người đầy khắc nghiệt. Tác phẩm phản ánh rõ nét bi kịch của Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện đến kẻ lưu manh, đồng thời khắc họa sâu sắc những giá trị nhân văn bị vùi lấp trong xã hội phong kiến.

Là một nhà văn hiện thực bậc thầy và nhà nhân đạo chủ nghĩa xuất sắc của văn học Việt Nam, Nam Cao đã có những cải cách và sáng tạo độc đáo trong sáng tác của mình. Với ý thức sâu sắc về vai trò của người cầm bút trong đời sống tinh thần của xã hội, Nam Cao luôn yêu cầu văn chương phải “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo cái gì chưa có” (Đời thừa). Trong suốt sự nghiệp viết lách, Nam Cao đã kiên trì thực hiện tâm nguyện đó.

Các tác phẩm của Nam Cao đã được nhiều công trình khoa học nghiêm túc nghiên cứu. Những nghiên cứu này đã đề cập đến các vấn đề lớn trong sáng tác của ông như chủ nghĩa hiện thực, tư tưởng và phong cách, đề tài, kết cấu, giọng điệu, không gian và thời gian nghệ thuật. Gần đây, chúng ta có cơ hội tìm hiểu Nam Cao sâu sắc hơn từ góc độ thi pháp học và văn bản học. Tuy nhiên, vẫn còn ít nghiên cứu về những tác phẩm cụ thể của Nam Cao, đặc biệt là những tác phẩm được giảng dạy trong nhà trường.

Trong bài viết này, chúng tôi tiếp thu hướng nghiên cứu đã nêu trên và tập trung tìm hiểu không gian nhân tính trong truyện ngắn “Chí Phèo”, để qua đó, cùng khám phá những gì Nam Cao đã “đào sâu”, “tìm tòi”, và cảm nhận tâm hồn nhân đạo sâu sắc của ngòi bút hiện thực bậc thầy này.

Theo định nghĩa của “Từ điển thuật ngữ văn học”, không gian nghệ thuật là “hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”, “có tác dụng mô hình hoá các mối quan hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự”. Không gian nghệ thuật “cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học”. Nhà nghiên cứu văn học Trần Đăng Xuyền cho rằng không gian nghệ thuật gắn chặt với “cảm quan về con người và cuộc đời, gắn bó với mơ ước và lý tưởng của nhà văn”.

Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, tác giả đã tạo ra hai không gian mang tính chất đối lập rõ ràng, vừa đan xen vừa tách biệt nhau để thể hiện ý đồ tư tưởng của mình. Không gian thứ nhất là không gian trong làng Vũ Đại, nơi ngự trị của những bè cánh, âm mưu toan tính bóc lột dân nghèo của bọn cường hào ác bá. Đây là nơi người lao động bị bóc lột cùng kiệt, hoặc phải bỏ làng mà đi hoặc “è cổ nuôi bọn lý hào”. Nơi ấy đầy rẫy những bộ mặt nham hiểm như Bá Kiến, Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng, những kẻ đã đục khoét và ức hiếp dân lành. Không gian trong làng Vũ Đại ngày ấy ngập tràn trong đen tối của âm mưu, mòn mỏi trong đói nghèo và những định kiến, hắt hủi, ghẻ lạnh. Chí Phèo, sau khi đi tù về, đã trượt dài trên con đường từ một kẻ lưu manh thành một con quỷ dữ. Trong môi trường sống phi nhân tính này, dù đã đôi lần cố gắng trở lại làm người lương thiện, Chí Phèo vẫn thất bại. “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Chí Phèo đã bị vật hóa đến mức không còn ý thức được về thời gian của đời mình, bị loại khỏi cộng đồng.

Tuy nhiên, trong không gian ấy, Nam Cao cũng đã nhìn ra những tấm lòng vàng. Mặc dù sinh ra không cha mẹ, bị vứt bỏ bên cái lò gạch cũ, Chí Phèo vẫn lớn lên nhờ vào sự giúp đỡ của những người như anh thả ống lươn, người đàn bà góa mù, bác phó cối. Tuổi thơ của Chí tuy tủi hờn, khốn khổ nhưng lành lặn và lương thiện. Có lẽ, tuổi thơ ấy đã góp phần tạo nên ước mơ bình dị đến cháy lòng của Chí khi hắn còn trẻ.

Phân tích như vậy để thấy rõ tính chất đối lập giữa không gian sống trong làng Vũ Đại và không gian sống riêng của Chí Phèo. “Năm sào vườn ở bãi sông” mà Chí có được sau khi đòi nợ giúp Bá Kiến là không gian sống riêng của Chí, một không gian giàu nhân tính, có khả năng thức tỉnh linh hồn người, duy trì tình yêu và lương thiện.

Trần Đăng Xuyền nhận định “Không gian trong sáng tác của Nam Cao chủ yếu là không gian riêng tư, cá nhân”. “Năm sào vườn ở bãi sông” có thể coi là không gian sống riêng tư, cá nhân của Chí Phèo. Ở không gian ấy, Chí Phèo có một túp lều, nơi hắn thường ở “cái miếu con ở bờ sông, vì vốn từ trước đến nay không có nhà”. Túp lều ấy có thể coi là “không gian căn phòng” của Chí. Chính ở không gian riêng này, nhân vật của Nam Cao mới thực sự đối mặt với chiều sâu nội tâm của chính mình. Tính chất riêng tư của không gian sống ấy càng rõ hơn khi “trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến, người ta thôi dần, tìm một lối khác đi xa hơn”.

Nhà văn Nam Cao đã rất có ý thức nghệ thuật khi khắc họa không gian sống lương thiện của Chí Phèo trong thế đối lập với môi trường phi nhân tính trong làng Vũ Đại. Thứ nhất, năm sào vườn ấy ngăn cách với không gian trong làng Vũ Đại bằng một con đê. Thứ hai, không gian của Chí Phèo nằm cạnh bờ sông, nơi con nước trong lành, nơi duy trì nguồn sống của con người, nơi có ánh trăng vàng rực rỡ, tiếng chim hót ríu rít, tiếng nói cười vui vẻ của những người hàng xóm. Thứ ba, trong không gian ấy, Chí sống nguyên vẹn với phần lương thiện của mình. Thứ tư, không gian lương thiện này giúp Chí Phèo thức tỉnh bản tính lương thiện của mình một cách sâu sắc. Thứ năm, trong không gian yêu thương ấy, Chí Phèo và Thị Nở đã có thể sống trong tình yêu, hạnh phúc năm ngày trọn vẹn. Thứ sáu, với Chí Phèo, rượu là phương tiện hỗ trợ hắn gây ác, nhưng trong năm ngày chung sống với Thị Nở, Chí đã sợ rượu, nếu có uống cũng uống ít để còn tỉnh táo mà yêu nhau.

Trong khoảng 25 trang truyện, Nam Cao đã dành ít nhất một nửa số trang để tái hiện sáu ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. Và trong sáu ngày ấy, Chí sống trọn vẹn trong không gian riêng, đầy tình người, ấm áp tiếng cười và niềm vui. Miêu tả quãng đời ấy của nhân vật, Nam Cao đã bộc lộ sở trường phân tích tâm lý. Nhân vật Chí Phèo hiện ra với một thế giới nội tâm phong phú đáng kinh ngạc.

Sáng tạo ra hai không gian đối lập trong tác phẩm, Nam Cao đã thể hiện một cách nghệ thuật đến ám ảnh lời kêu cứu khẩn thiết của mình: Hãy trả lại cho con người môi trường sống tốt lành, để con người được sống đích thực với giá trị của mình.