BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Nghệ thuật miêu tả chân dung chị em Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du được thể hiện tinh tế qua những chi tiết sinh động và phong phú. Hình ảnh của Kiều và em Thúy Vân không chỉ phản ánh vẻ đẹp ngoại hình mà còn thể hiện tính cách, số phận, và mối quan hệ giữa hai chị em.

Nói về Truyện Kiều, không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Quả thật, mặc dù xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng nếu Kim Vân Kiều không để lại dấu ấn gì trong văn học Trung Quốc thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một tác phẩm lớn trong văn học thế giới.

Điều gì đã làm nên giá trị và sức sống của Truyện Kiều? Có rất nhiều yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Nhưng nét bút đặc sắc của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người thì không ai có thể phủ nhận được. Ông đã sáng tạo ra những chi tiết, ngôn ngữ, tâm lý nhân vật… tạo nên một thế giới nhân vật phong phú. Chân dung chị em Thúy Kiều là một điển hình.

Với ngòi bút thiên tài, đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, những trang tuyệt sắc giai nhân tiêu biểu trong dòng văn học trung đại. Đó là một vẻ đẹp toàn mỹ trong tính ước lệ của văn chương:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Câu thơ hiện lên hình ảnh hai cô gái vóc dáng mảnh dẻ, yểu điệu như cành mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Nhịp thơ 3/3 tách câu thơ thành hai tiểu đối tạo âm điệu nhịp nhàng, nhấn mạnh vẻ đẹp hài hòa cân đối của hai chị em. Một vẻ đẹp đã đến độ hoàn hảo. Mượn các yếu tố thiên nhiên để lột tả vẻ đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ “mỗi người một vẻ”. Quả thật, trong tác phẩm cũng như trong đời thực, không ai hoàn toàn giống ai, chính điều ấy đã tạo nên cái diện mạo và tính cách riêng của từng nhân vật.

Đây là vẻ đẹp của Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Hình ảnh ước lệ, nhưng người đọc có thể hình dung một Thúy Vân xinh đẹp, thùy mị, đoan trang với khuôn mặt phúc hậu, tươi thắm như trăng rằm, nụ cười rạng rỡ như hoa hàm tiếu, giọng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng ngọc. Nhà thơ ca ngợi mái tóc của Thúy Vân óng mượt đến mây cũng phải thua, làn da trắng ngần mà tuyết cũng phải nhường. Tạo hóa đã ban cho nàng một sắc đẹp mà biết bao phụ nữ hằng ao ước! Một vẻ đẹp đầy chất ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại “mặt hoa da phấn”, “mắt phượng mày ngài”. Tạo hóa phải nhường bước, chịu thua trước sắc đẹp của nàng. Biện pháp nhân hóa “mây thua, tuyết nhường” kết hợp với từ ngữ gợi tả “đầy đặn, nở nang” vừa diễn tả vẻ đẹp của nàng vừa gợi lên sự tròn đầy viên mãn. Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng hài hòa, như nét đan thanh của một cô gái thùy mị, nết na chừng như dự báo một cuộc sống yên vui, tốt đẹp của nàng trong tương lai. Hạnh phúc dang rộng cánh tay chờ đợi những bước chân nhịp nhàng, khoa thai của nàng trong tương lai.

Nếu Thúy Vân là vẻ đẹp của bức tranh tố nữ, thì Thúy Kiều là vẻ đẹp của người ngọc hiện diện giữa trần đời đầy sắc sảo, mặn mà. Hoàn tất bức chân dung Thúy Vân, nhà thơ mới từ tốn, hình như có chút hoang mang bối rối khi họa nên bức chân dung Thúy Kiều. Nếu chỉ với 4 câu thơ, chân dung Thúy Vân đã hoàn thiện thì khi tả Kiều, nhà thơ đã khẳng định:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.”

Có người nói, nhà thơ dùng Thúy Vân làm nền để tôn lên vẻ đẹp của Thúy Kiều trong nghệ thuật “tả khách hình chủ”. Lẽ nào trái tim nhân hậu của Nguyễn Du có thể làm tổn thương một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như Thúy Vân ư? Chẳng phải đức hạnh và vẻ đẹp của Thúy Vân đã được thừa nhận, ca ngợi đó sao? Ngòi bút nhân văn như Nguyễn Du, chắc chắn ông rất trân trọng và yêu thương nhân vật của mình. Ông yêu thương, nâng niu tất cả những tài hoa trác tuyệt ấy. Có điều đối với Thúy Vân là sự yêu thương, nâng niu trân trọng, còn đối với Thúy Kiều là sự đồng cảm, yêu thương, ưu tư cho một số kiếp con người:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”

Từ “càng” vừa là sự chuyển tiếp vừa diễn tả một mức độ thái quá, một điều gì đáng lo ngại. Nỗi băn khoăn lo lắng ấy không kềm chế được nên câu trước thì khoan thai hào hứng “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Câu thơ ngắt ra thành 2 dòng để nhấn mạnh, để điểm tô vẻ đẹp tuyệt vời ấy mà sao nghe như có gì uất nghẹn. Nguyễn Du đã sáng tạo trong miêu tả nhân vật. Chỉ một nét thần, nhà thơ không chỉ miêu tả ánh mắt, nét mày mà còn lột tả tâm hồn nhân vật. Thúy Kiều đẹp quá, ánh mắt nàng đẹp như mặt nước hồ thu mênh mông, vời vợi trong sắc xanh của mây trời, trong chút vàng của nắng, của chiếc lá thu phai. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong đáy mắt màu thu ươn ướt, man mác buồn ấy, lại chất chứa trái tim đa sầu đa cảm mà đằm thắm tình người, tình đời bao dung. Chính “làn thu thủy” ấy đã rung cảm “dầm dầm châu sa” trước nấm mồ hoang vô chủ của Đạm Tiên, rồi lại trước cơn gia biến đã quyết hy sinh mối tình đầu chớm nở với Kim Trọng mà “Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”. Rồi phải trầm luân trong mười lăm năm gió bụi cuộc đời với biết bao đắng cay tủi nhục. Nét độc đáo của thiên tài Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của nét mày nàng đẹp như dáng núi mùa xuân xanh cong quyến rũ, tràn đầy sức sống. Mùa xuân với sắc xanh mượt mà mơn mởn “Xuân du phương thảo địa” (cổ thi), “cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du), ẩn sau “nét xuân sơn” ấy là sức sống dâng trào của cô gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê” (Nguyễn Du). Chính trong vẻ yêu kiều ấy, Thúy Kiều đã rung động trong lần đầu gặp Kim Trọng “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” để rồi sau lần đầu gặp gỡ ấy trái tim dào dạt yêu thương đã tự nhủ:

“Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không.”

Rồi chính nàng đã chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tìm đến chàng Kim. Nàng đã chủ động vượt qua những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt để tìm đến mối tình đầu trong sáng. Theo những bước chân mạnh mẽ ấy, trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thể hiện một quan niệm sống, một khái niệm tự do trong hôn nhân hiếm thấy trong văn học trung đại.

Ánh mắt nét mày ấy ẩn chứa một tâm hồn đa sầu đa cảm, đầy ắp yêu thương, tràn dâng sức sống. Nhưng ngay sau vẻ đẹp tuyệt trần ấy, dường như có điều gì oan ức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Việc gì phải ghen, phải hờn? Thói đời là vậy! Cái sâu sắc nhân tình thế thái, cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ chỉ nhân tả vẻ đẹp của Kiều mà đã gợi ra được một phần cuộc đời ô trọc, nhỏ nhen sẵn sàng vùi dập cuộc đời một trang tuyệt sắc giai