Trong "Hạnh phúc của một tang gia" (Số Đỏ), Vũ Trọng Phụng đã sử dụng nghệ thuật trào phúng sắc sảo để phê phán lối sống suy đồi, giả tạo của tầng lớp thượng lưu thành thị. Bằng giọng văn hài hước, ông vạch trần những nghịch lý, bi hài của xã hội đương thời.
Mục lục [Ẩn]
Dàn ý phân tích Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia
1. Mở bài:
– Vũ Trọng Phụng được biết đến là một trong những nhà văn trào phúng xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là nửa đầu thế kỷ XX.
– Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Vũ Trọng Phụng là tiểu thuyết Số đỏ. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là đỉnh cao của ngòi bút trào phúng sắc sảo Vũ Trọng Phụng.
2. Thân bài:
* Nghệ thuật châm biếm nằm ở nhan đề:
– “Hạnh phúc của một tang gia” => Nghịch lý gây tò mò và sửng sốt cho người đọc.
* Tình huống truyện trào phúng:
– Ông cụ mất mà cả nhà đều vui mừng. “Ba ngày sau, ông cụ già chết thật.”
– Bản chất xấu xa, tệ hại của mỗi thành viên trong gia đình được bộc lộ qua suy nghĩ và hành động của họ.
– Qua cảnh đám ma hỗn loạn: người đi rước thì mải mê, tám chuyện, tán tỉnh với nhau trong cái vẻ mặt giả tạo nghiêm túc → thể hiện xã hội nhố nhăng, vô đạo đức.
* Các tình tiết truyện trào phúng độc đáo:
– “Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu thi nhau rộn lên” => Điều này phản ánh thực trạng xã hội vô trật tự, sự hỗn tạp đến nực cười của các nền văn hóa ngoại quốc.
– Chi tiết hạ huyệt thể hiện rõ tư cách đạo đức, suy đồi của giới thượng lưu.
– Ngôn ngữ trào phúng, châm biếm, mỉa mai, có lúc thực tế, có lúc gợi hình tạo cho câu chuyện sự linh hoạt, mang đến cho độc giả những suy ngẫm.
3. Kết bài:
– Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích thể hiện rõ nhất ngòi bút châm biếm, trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng.
– Văn chương của Vũ Trọng Phụng thoạt đầu luôn mang lại tiếng cười bởi sự hài hước và dí dỏm sâu sắc, nhưng sau đó người ta phẫn uất và buồn bã bởi thời đại lịch sử mà đạo đức xã hội nằm ở Giá trị âm.
Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Mỗi chương là một màn hài kịch, và chương XV, “Hạnh phúc một tang gia”, được đánh giá là một trong những màn hài kịch thành công nhất. Qua việc miêu tả đám tang của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày bộ mặt xấu xa của giới trưởng giả, cái xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” đương thời như cách nói của nhà văn.
Tính chất trào phúng được thể hiện sâu sắc qua cái nhan đề đầy nghịch lý: “Hạnh phúc một tang gia”. Ở đây, Vũ Trọng Phụng khai thác sự mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. Thông thường, cái chết gợi lên tâm trạng đau buồn, sầu não, xót thương. Nhưng trong trường hợp này, cái chết bất ngờ của cụ Tổ đã mang lại lợi ích và niềm vui lớn lao cho mỗi thành viên trong đám con cháu. Nhà có người chết mà lại vui, cảnh tang gia có bối rối thật nhưng đó là sự bối rối một cách sung sướng. Bối rối không phải tổ chức một đám tang mà là để tổ chức một ngày hội, một đám rước thì đúng hơn.
Trong chương này, Vũ Trọng Phụng xây dựng những bức chân dung trào phúng rất đặc sắc. Mỗi nhân vật hiện lên là một niềm “hạnh phúc” trong cảnh tang gia bối rối.
Cái chết của cụ Tổ khiến mọi thành viên trong gia đình có tang cảm thấy “sung sướng và hạnh phúc” vì họ đã nóng lòng chờ đợi giây phút này từ lâu. Ngoài việc thể hiện cái “hạnh phúc” chung của một tang gia, mỗi người trong gia đình lại có một “hạnh phúc” riêng, không ai giống ai. Thông qua sự miêu tả cảm xúc, tâm trạng của mỗi người trước cái chết của cụ Tổ, nhà văn đã thể hiện rõ nét bản chất, tính cách của mỗi nhân vật.
Nhân vật cụ Cố Hồng là con trai của người chết. Ông ta có sở thích quái gở là thích đóng vai cụ già yếu, mặc dù tuổi tác chưa phải là cao. Nhưng từ trước đến nay, cụ Cố Hồng mới chỉ diễn trò già yếu với đám con cháu trong nhà, nay nhờ có đám tang của bố mình mà cụ có được cái may mắn diễn trò già yếu trước công chúng hàng nghìn người. Mới nghĩ đến cảnh đám tang, ông đã thấy sướng run người. Cụ Cố Hồng đã nhắm mắt lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu máo để cho thiên hạ chỉ trỏ: “Uí kìa, con dai lớn đã già thế kia kìa.”
Với vợ chồng Văn Minh, sau cái chết của cụ Tổ, họ sẽ được chia một phần gia tài khá lớn. Điều mà ông ta lo lắng lúc này là phải mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ Tổ: “để cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viễn vong nữa”. Đám ma của cụ Cố cũng là dịp hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mẫu trang phục táo bạo nhất: “nó có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.”
Sự lố lăng được đẩy lên cao hơn nữa khi xuất hiện hình ảnh cô Tuyết, cháu nội cụ Cố. Người cháu gái hiếu thảo này luôn mong ông nội chết để có dịp diện những bộ quần áo tân trang, hở hang đầy khiêu gợi. Trong đám đông nhốn nháo ấy, cô luôn mong gặp tình nhân Xuân tóc đỏ để thể hiện lòng hiếu thảo giả tạo của mình và mong Xuân thấu hiểu cô. Và để diễn cho thật giống với tâm trạng ấy, cô Tuyết luôn giữ vẻ mặt buồn rầu rất “lãng mạn và hợp thời.” Nhưng cô buồn không phải vì cái chết của ông nội mà vì chưa thấy mặt Xuân tóc đỏ.
Cậu Tú Tân, cháu nội người sắp chết, lại có một “niềm hân hoan” tuyệt vời khác. Cậu đã chuẩn bị cái máy ảnh từ lâu và luôn mong ngóng ông nội chết để ghi lại những khoảnh khắc đau thương “tuyệt vời nhất,” nhưng ông nội vẫn chưa chịu chết, khiến cậu vô cùng bức bối muốn điên người. Và hôm nay chính là cơ hội để cậu phô diễn hết tài năng chụp hình của mình.
Ông Phán mọc sừng, chồng cô Hoàng Hôn, là cháu của người quá cố. Không phải ai khác mà chính ông ta là nguyên nhân gây ra cái chết của cụ Tổ. Ông Phán tỏ vẻ vui mừng hả hê trước việc vợ mình ngoại tình và lợi dụng để tống tiền nhà vợ. Không ngờ điều đó lại khiến cụ Tổ bị sốc mà chết. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta lại to đến như thế.
Cảnh đám tang được nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả bằng bút pháp trào phúng bậc thầy. Cảnh đám tang được miêu tả hết sức trọng thể, phô trương, hình thức. Việc tổ chức đám tang rất hổ lốn theo kiểu Ta – Tàu – Tây (có kiệu bắt cổng, lợn quay đi lạng, có lốc cốc xoảng, có cái bu-dích,…).
Những người đi dự đám tang luôn cố tạo ra vẻ buồn rầu, nghiêm trang cho phù hợp với phong cảnh, nhưng những câu chuyện của họ thì rất sôi nổi đời thường và chẳng liên quan gì đến người chết. Người đi đưa đám mà trang phục của họ thì như đi hội; có đủ mọi thứ, nhưng chỉ thiếu một thứ duy nhất đó là tình cảm xót thương, đau đớn tiễn đưa người chết.
Trong đám tang, Xuân tóc đỏ càng được dịp huênh hoang hơn vì nhờ có hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết (hắn tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô cháu gái Hoàng Hôn khiến cụ uất lên mà chết). Là cố vấn của tờ báo “Gõ mõ,” Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám ma vì đã bổ sung vào sự long trọng của đám tang sáu chiếc xe chở sư cụ chùa Bà Đanh cùng với những vòng hoa đồ sộ. Việc làm của Xuân đã khiến cụ Phán bà – người đã từng chửi Xuân là đồ khốn nạn và đe sẽ nhổ vào mặt hắn – cũng phải cảm động và sung sướng: “ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to. May mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi.”
Bản chất của nghệ thuật trào phúng là làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập (giữa bản chất và hiện tượng, giữa hình thức và nội dung, giữa lời nói và việc làm). Chính thông qua sự đối lập ấy làm nổi bật tiếng cười mỉa mai, trào phúng, chế giễu. Nói cách khác, bằng nghệ thuật trào phúng, nhà văn giúp người đọc lật mặt trái của xã hội, làm rõ sự thối nát, bất công của xã hội, cũng như con người.
Niềm vui và hạnh phúc không chỉ biểu hiện trên gương mặt, dáng đi, lời nói của mọi thành viên trong gia đình người chết mà còn lan tỏa ra những người xung quanh. Hai viên cảnh sát Min Đơ, Min Toa đang thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ Cố Hồng thì được dịp khoe khoang sự oai vệ, danh giá của mình: “ngực đầy những huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Môn bội tinh, Vạn Tượng bội tinh. Trên mép và cằm đều đủ râu ria…”. Những người dân hàng phố thì vui vẻ náo nức vì hiếm khi được xem một đám ma to như thế: “theo cả lối Ta – Tàu – Tây, có kiệu bắt cống, lợn quay đi lạng cho đến cốc xoảng và bu dích và vòng hoa. Có đến 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh đang thi nhau như ở hội chợ.”
Có thể nói, cảnh đám tang diễn ra hết sức long trọng, vui vẻ; nó giống như một đám rước ngày hội vậy. Những người đến chia buồn và đưa ma, ai cũng cố tạo ra vẻ mặt buồn rầu và