BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là tác phẩm tiêu biểu của ông viết về những người lính lái xe can trường, dũng cảm, lạc quan, yêu đời trong mưa bom, bão đạn. Họ quyết chiến đấu hi sinh vì lý tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.

1. Mẫu số 1

Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng mới mẻ. Vừa có nét gì đó tinh nghịch, hóm hỉnh lại không kém phần suy tư. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm sống dậy cả những năm tháng hào hùng của dân tộc.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực. Hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính, một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thậm chí còn xước xác....

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến:

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.

Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh chim, sao trời.... Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có những cảm nghĩ chân thực đến vậy. Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào tim. Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Có lần bình luận về khổ thơ này nhà thơ Xuân Diệu tỏ ra không hài lòng với cụm từ cười “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao được. Có thế mới tạo nên khí phách của các anh có thế mới cảm nhận hết sự sảng khoái hồn nhiên của một tinh thần đầy lạc quan trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người. Chỉ cần trong buồng lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.

Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần của các anh cũng chính là thứ tình yêu nước thiết tha mà cả dân tộc thời bấy giờ đang hừng hực. Chiến tranh tuy đã lùi xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ ấy vẫn sống mãi trong lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.

2. Mẫu số 2

Phạm Tiến Duật, một trong những cây bút nổi bật của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bằng những vần thơ viết về những chiến sĩ và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Với vai trò là một người lính trong cuộc, Phạm Tiến Duật hiểu sâu sắc cuộc sống chiến đấu và tâm hồn của những con người đã trải qua bao gian lao, hiểm nguy nơi chiến trường. Đặc biệt, với tư cách là một thành viên của đoàn 559, nhà thơ đặc biệt chú ý và dành nhiều tình cảm cho những người lính lái xe trên tuyến đường khốc liệt này. Từ những vần thơ của ông, hình ảnh người lính lái xe hiện lên với tư thế hiên ngang, tinh thần bất khuất, cùng niềm vui lạc quan, trẻ trung và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam.

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật, thể hiện rõ nét chủ đề ấy. Ngay từ những câu thơ mở đầu, hình tượng những chiếc xe không có kính chắn gió đã lập tức thu hút sự chú ý của người đọc:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Với ngôn ngữ bình dị, Phạm Tiến Duật đã tái hiện lại một cách chân thực sự khốc liệt của chiến tranh khi những chiếc xe phải đối mặt với bom đạn và sự tàn phá không ngừng. Tuy nhiên, qua lời thơ tự nhiên như lời nói hàng ngày, những khó khăn, hiểm nguy đó dường như trở nên quá đỗi quen thuộc với những người lính lái xe. Tư thế hiên ngang của họ được phác họa ngay trong khổ thơ đầu với điệp từ "nhìn" nhấn mạnh ba lần: "nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng", kết hợp với cách ngắt nhịp hai - hai - hai, làm nổi bật tinh thần bất khuất của họ trước muôn vàn thử thách.

Điều đặc biệt là dù không có kính chắn, những người lính lái xe vẫn thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên qua từng cơn gió, từng vì sao:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Những chi tiết như sao trời, cánh chim không chỉ là hình ảnh thực mà còn mang tính biểu tượng cho sự lãng mạn trong tâm hồn người lính. Họ không chỉ là những chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn, mà còn là những con người với trái tim biết yêu cái đẹp, gắn bó sâu sắc với con đường mà họ đang bảo vệ. "Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim" không chỉ là một cảm giác thực tế của người lái xe, mà còn là sự khẳng định về tình yêu và sự cống hiến của họ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tính cách trẻ trung, hồn nhiên của những người lính lái xe cũng được thể hiện qua những chi tiết rất đời thường, pha chút ngang tàng:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”

Những chi tiết như “bụi phun tóc trắng” hay “phì phèo châm điếu thuốc” gợi lên hình ảnh những người lính vừa giản dị, vừa mạnh mẽ, ngang tàng, nhưng cũng không kém phần đáng yêu. Tiếng cười “ha ha” trong câu thơ cuối đã tạo nên một dấu ấn đặc biệt, thể hiện rõ sự lạc quan và tinh thần thoải mái của họ giữa những năm tháng gian khổ.

Không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn khắc họa sự gắn bó keo sơn giữa những người lính lái xe, dù họ phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy trên tuyến đường:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Qua câu thơ, Phạm Tiến Duật đã tạo dựng nên một hình ảnh sống động về sự đồng cam cộng khổ, sự đoàn kết giữa những người lính. “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là một hình ảnh mang đầy tính biểu tượng, thể hiện sự chia sẻ, gắn kết giữa họ dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào. Tình đồng đội không chỉ thể hiện qua những cái bắt tay mà còn qua bữa ăn đạm bạc: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, gợi lên tình cảm anh em, sự chia sẻ giữa những người cùng chung chiến hào.

Kết thúc bài thơ, Phạm Tiến Duật đã để lại một thông điệp sâu sắc, qua đó tôn vinh tinh thần kiên cường và quyết tâm của người lính lái xe:

“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Dù cho có bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu mất mát và hy sinh, người lính vẫn kiên định hướng về miền Nam, vì sự nghiệp giải phóng đất nước. "Trái tim" ở đây không chỉ là trái tim sinh học mà còn là trái tim yêu thương, trái tim của lòng quyết tâm, của sự hy sinh và cống hiến.

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật với giọng thơ tự nhiên, pha chút ngang tàng, đã khắc họa chân thực và sâu sắc hình ảnh những người lính lái xe thời chiến. Tác phẩm không chỉ giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống gian khổ của họ mà còn tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, ý chí chiến đấu kiên cường và tinh thần lạc quan của những con người đã góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Phạm Tiến Duật đã có những đóng góp quý báu cho thơ ca kháng chiến, đặc biệt là trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước.

3. Mẫu số 3

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam mãi là một bản anh hùng ca bất diệt, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng mỗi người con đất Việt. Trong những năm tháng hào hùng khi cả dân tộc đồng lòng tiến lên theo lời hô hào “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” nhân dân miền Bắc đã cống hiến không chỉ sức người mà còn sức của để chi viện cho miền Nam ruột thịt. Từng đoàn quân nối dài không ngừng ra chiến trường, mang theo khát vọng độc lập và tự do cho dân tộc.

Trong những đoàn quân ấy, có một chàng trai trẻ mang tên Phạm Tiến Duật, một nhà thơ xuất thân từ chiến trường, người đã sống và trưởng thành trong ngọn lửa của chiến tranh. Phạm Tiến Duật không chỉ là một chiến sĩ mà còn là một nhà thơ chiến đấu với những tác phẩm thấm đẫm tinh thần thời đại. Thơ của anh không cuốn hút người đọc bằng những lời văn hoa mỹ hay âm điệu ngọt ngào, mà chính sự tự nhiên, chân thật và giàu sức sống đã tạo nên chất riêng biệt. Tiêu biểu cho phong cách thơ của anh là "Bài thơ về tiểu đội xe không kính," một tác phẩm phác họa chân dung người lính lái xe trên con đường chiến tranh khốc liệt.

Xuyên suốt bài thơ, hai hình ảnh nổi bật xuyên suốt là những chiếc xe không kính và những người lính điều khiển chúng. Hình ảnh chiếc xe không kính hiện lên thật sống động, được miêu tả qua lời thơ tự nhiên, giản dị mà sâu sắc:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.”

Lời thơ tuy đơn giản nhưng giàu hình ảnh, giúp người đọc dễ dàng hình dung khung cảnh ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung.” Sự khốc liệt của chiến tranh không chỉ tàn phá cơ sở vật chất mà còn thách thức ý chí của những người lính. Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh thiếu thốn đó, phẩm chất kiên cường và tinh thần lạc quan của người lính lái xe lại càng tỏa sáng:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Sự bình thản trong cái nhìn bao quát của người chiến sĩ giữa mưa bom bão đạn, cùng với niềm kiêu hãnh trong từng câu thơ, đã thể hiện tinh thần bất khuất và niềm tin vào ngày mai chiến thắng. Trên những chiếc xe không kính, họ phải đối mặt với đủ mọi khó khăn, từ gió bụi cho đến mưa bão:

“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
… Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.”

Dù bom đạn thù địch liên tục uy hiếp, gió bụi hay mưa sa không hề khiến những người lính nản lòng. Họ bình tĩnh và vững vàng trước mọi thử thách. Câu thơ lặp đi lặp lại “ừ thì” không chỉ là sự chấp nhận, mà còn là tiếng cười đùa lạc quan của những người lính trẻ đầy nhiệt huyết. Cái khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh đã trở thành một phần của cuộc sống thường ngày, nhưng họ vẫn kiên cường vượt qua với tinh thần chiến đấu bất khuất.

Bên cạnh những hình ảnh vất vả, bài thơ còn tỏa sáng với những phút giây ấm áp của tình đồng đội. Họ không chỉ là những chiến sĩ sát cánh bên nhau, mà còn là những người anh em trong một đại gia đình:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.”

Tình đồng đội gắn bó trong những khoảnh khắc giản dị nhưng đầy ý nghĩa ấy là nguồn động viên to lớn giúp họ tiếp tục tiến bước, mang theo niềm tin vững chắc vào chiến thắng cuối cùng. Dù chiếc xe ngày càng hư hại qua từng chặng đường chiến đấu khốc liệt:

“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.”

Nhưng điều duy nhất không bao giờ bị thiếu hụt chính là tinh thần của người lính, bởi vì:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Hình ảnh "trái tim" ở đây chính là biểu tượng cho lòng yêu nước nồng nàn, sự kiên cường và niềm tin bất diệt vào chiến thắng. Trái tim của những người chiến sĩ chính là động lực mạnh mẽ, là sức mạnh giúp đoàn xe vượt qua mọi thử thách, đưa cuộc kháng chiến tiến tới thắng lợi.

Bài thơ của Phạm Tiến Duật với giọng điệu trẻ trung, tươi mới và đậm chất lính, đã khắc sâu vào lòng người đọc hình ảnh những người lính lái xe quả cảm, kiên cường. Những câu thơ giản dị mà sâu sắc, hình ảnh sống động và ngôn ngữ đầy sáng tạo đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ, ghi dấu ấn đậm nét trong nền văn học cách mạng Việt Nam.