Khi tiếp cận thi phẩm Viếng lăng Bác, người đọc có thể đặt câu hỏi về cảm xúc chân thành của tác giả khi viếng thăm lăng Bác Hồ, cũng như cách thức tác phẩm thể hiện lòng kính trọng và tự hào dân tộc qua từng câu chữ.
Tố Hữu đã từng chia sẻ: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình”. Theo quan niệm này, nhà thơ là người tạo ra tác phẩm, nhưng chính người đọc là yếu tố quyết định đến sự sống của tác phẩm đó. Khi một tác phẩm ra đời, nó mở đầu cho sự đối thoại giữa tác giả và độc giả. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận xét rằng: “Người đọc tìm đến nhà thơ không phải chỉ hỏi lí tưởng mà còn hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét…”. Đây là những điều mà người đọc tìm kiếm khi tiếp cận thi phẩm “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
Thơ ca không chỉ là tiếng đàn của cuộc sống, mà còn là người ghi chép trung thành của trái tim. Đến với thơ là đến với những giọt mật cuộc đời được nghệ sĩ chắt chiu. “Lí tưởng” trong thơ có thể hiểu là những điều tốt đẹp và hoàn hảo mà tác giả gửi gắm. Tuy nhiên, người đọc không chỉ tìm kiếm cái lí tưởng, mà còn là “hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét”, tức là tìm hiểu cách phản ứng và đồng cảm với cuộc đời qua lời thơ. Quan điểm của Chế Lan Viên nhấn mạnh mối quan hệ tri âm giữa người đọc và nhà thơ, là sự đồng điệu và chia sẻ những cảm xúc, trăn trở của người viết.
Thạch Lam từng nói: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một khí giới thanh cao và đắc lực để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn chương, bao gồm thơ ca, hướng đến cái lí tưởng và những giá trị chân – thiện – mĩ. Người đọc tìm đến tác phẩm để suy tư và đồng cảm với tác giả, và thi phẩm “Viếng lăng Bác” phản ánh một tình yêu thương sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc.
Thơ ca là tiếng nói trực tiếp của cảm xúc, và khi đọc thơ, người đọc không chỉ tìm đến cái lí tưởng mà còn hòa mình vào muôn vàn tâm trạng của trái tim đa sầu, đa cảm. Đọc thơ là cách để hiểu cảm xúc của người nghệ sĩ, học cách yêu, ghét, giận dữ. Mỗi bài thơ là sự thổ lộ từ trái tim, và khi đọc, người đọc cũng sẽ cảm nhận được sự rung động từ vần thơ. Ví dụ, trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, Viễn Phương viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Khi lần đầu tiên ra thăm lăng Bác năm 1976, tác giả đã không kìm nén được cảm xúc và gửi gắm nỗi nhớ thương vào từng câu chữ. Ngôn từ của tác giả thể hiện sự gần gũi và thân thương. Đối với thi sĩ, Bác Hồ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc, và từ “thăm” đã làm dịu đi nỗi mất mát. Viễn Phương sử dụng từ láy “bát ngát” và “xanh xanh” để mở ra hình ảnh cây tre Việt Nam, biểu trưng cho sự kiên cường và phẩm chất con người Việt Nam. Những hình ảnh này làm cho bạn đọc cảm nhận được sự nghẹn ngào và xúc động khi đến lăng Bác.
Ngoài việc đọc bằng mắt, thơ còn cần được cảm nhận bằng tâm hồn. Khi rẽ qua từng câu chữ, người đọc hòa vào tác phẩm và sống cùng cảm xúc của tác giả. Chế Lan Viên nhấn mạnh rằng sự đối thoại giữa nhà thơ và độc giả là mối liên kết tri âm, nơi hai tâm hồn đồng điệu tìm đến nhau. Với Viễn Phương, đọc thơ là hòa vào dòng người dâng tràng hoa và cảm nhận sự bất tử của Bác qua hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ” và “tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Viễn Phương đã thổ lộ sự lưu luyến, bịn rịn và khát vọng chân thành qua những dòng thơ:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
“Thương trào nước mắt” thể hiện sự đau đớn, tiếc nuối và lòng kính yêu vô hạn đối với Bác. Điệp từ “muốn làm” thể hiện sự khát vọng mãnh liệt và chân thành của nhà thơ, từ việc muốn hóa thân thành chim, hoa, hay cây tre, đều thể hiện lòng thành kính và nguyện vọng gắn bó với Bác. Hình ảnh cây tre, một biểu tượng truyền thống của Việt Nam, thể hiện sự trung thành và nguyện đi theo con đường cách mạng của Bác.
Một bài thơ không chỉ là một văn bản đơn thuần mà phải có khả năng kích thích sự trăn trở và đối thoại với người đọc. Viễn Phương, qua sự xúc động khi rời lăng Bác, đã làm cho bạn đọc phải suy tư và cảm nhận về tình cảm chân thành của mình. Sự lặp lại hình ảnh cây tre trong kết cấu bài thơ làm nổi bật tình cảm sâu sắc và dòng cảm xúc trọn vẹn.
Cuối cùng, thơ không chỉ dừng lại ở cái lí tưởng và cảm xúc, mà còn ở sự đặc sắc nghệ thuật. Từ ngữ, hình ảnh, và biện pháp tu từ đều gắn chặt với nội dung, như một tờ giấy hoàn chỉnh. “Viếng lăng Bác” là một tác phẩm sử dụng hình ảnh ẩn dụ phong phú để gửi gắm tình cảm yêu thương đến Hồ Chủ tịch. Chế Lan Viên đã chỉ ra rằng nhà thơ và người đọc tạo nên một mối liên kết quan trọng trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Một tác phẩm chân chính không chỉ phải có cảm xúc và lí tưởng mà còn phải kích thích sự đối thoại và khám phá chiều sâu của cảm xúc trong thơ ca.