BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài viết sau đây sẽ mang đến cho quý độc giả một số bài văn mẫu hay phân tích nội dung 14 câu giữa của bài Trao duyên (trích Truyện Kiều - Nguyễn Du).

1. Dàn ý phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên

👉 Phân tích đề

Yêu cầu: phân tích 14 câu thơ giữa của bài Trao duyên.

Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong 14 câu thơ giữa bài Trao duyên (từ "Chiếc vành với bức tờ mây" đến "Rưới xin giọt nước cho người thác oan").

Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

👉 Hệ thống luận điểm

Luận điểm 1: Tâm trạng Kiều khi trao duyên, trao kỉ vật cho em

Luận điểm 2: Lời dặn dò của Kiều với em.

- Yêu cầu: phân tích 14 câu thơ giữa của bài Trao duyên.

- Đối tượng phân tích: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong 14 câu thơ giữa bài Trao duyên (từ "Chiếc vành với bức tờ mây" đến "Rưới xin giọt nước cho người thác oan").

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

a) Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn thơ Trao duyên và 16 câu thơ giữa (Chiếc vành với bức tờ mây…Rưới xin giọt nước cho người thác oan.)

+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

+ Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.

+ Đoạn trích Trao duyên nằm trong Truyện Kiều từ câu 723 đến câu 756 là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân.

- Khái quát nội dung 14 câu thơ giữa từ câu 13 đến câu 26 là tâm trạng của Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em gái ( lời độc thoại).

b) Thân bài

“Chiếc vành với bức tờ mây,
……………………………..
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên”

- Hoàn cảnh trao duyên:

+ Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em, Kiều nhớ thương chàng Kim trong đêm trước khi phải theo Mã Giám Sinh ra đi. "Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa/ dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn" nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han bấy giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

- Tâm trạng Kiều khi trao kỉ vật cho em (6 câu đầu): “Chiếc vành với bức tờ mây / Duyên này thì giữ vật này của chung / Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên / Mất người còn chút của tin / Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

- Lời dặn dò của Kiều với em (8 câu sau): "Mai sau dù có bao giờ / Đốt lò hương ấy so tơ phím này / Trông ra ngọn cỏ lá cây / Thấy hiu hiu gió thì hay chị về / Hồn còn mang nặng lời thề / Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai / Dạ đài cách mặt khuất lời / Rưới xin giọt nước cho người thác oan"

- Kiều tưởng tượng viễn cảnh hội ngộ bằng thế giới tâm linh, cõi âm đầy ma mị.

- Kiều dặn dò Thúy Vân phải thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.

+ Nhớ đến tình máu mủ chị em.

+ Chết đi vẫn nặng lời thề với người yêu về sự thủy chung.-> Kiều ý thức về sự bất hạnh của bản thân, tự khóc thương cho chính mình.

=> Sự miêu tả nội tâm giằng xé, sự quyến luyến giữa tình cảm và lí trí, đau đớn và nhớ thương người yêu đến tột cùng của Kiều.

- Đặc sắc nghệ thuật: Nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại sinh động, ngôn từ sử dụng điêu luyện và có sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và bác học vô cùng đặc sắc.

c) Kết bài

Khái quát lại nội dung 14 câu giữa bài Trao duyên.

Nêu cảm nhận của em.

2. Sơ đồ phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên

3. Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên

Mẫu số 1

Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của đất nước. Ông đã từng phiêu bạt khắp nơi, sống gian khó nên đã chứng kiến ​​những bất công của cuộc đời, đặc biệt là cuộc đời của những người phụ nữ tài sắc bạc mệnh. Qua những khía cạnh trong cuộc đời nàng Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn, Nguyễn Du đã phải thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Câu thơ này đã trở thành tiếng lòng xé tâm can khi nhắc đến câu chuyện của những người phụ nữ như thế thời phong kiến. Đoạn trích "Trao duyên" là nốt nhạc trầm buồn khởi đầu cho chuỗi ngày u ám suốt 15 năm của Thuý Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu, Kiều dựa dẫm vào em gái là Thúy Vân để lấy lòng Kim Trọng, thì ở 14 câu tiếp theo, Kiều đầy đau khổ trao lại cho Thúy Vân kỷ vật và hy vọng tương lai em gái thay mình trả duyên.

Nguyễn Du tên thật là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình rất danh giá, cha ông là một vị quan lớn của triều đại Lê và người anh cùng cha khác mẹ của ông cũng là một vị quan trong triều đình. Tuổi thơ đầy sóng gió, mất cha mẹ từ nhỏ và tha hương nhiều nơi, có lúc về quê cha, có lúc về quê mẹ, khi phải phiêu dạt về quê vợ tại Thái Bình. Có thể nói, cuộc đời trôi dạt cùng với những biến động thời cuộc đã tạo nên một Nguyễn Du học vấn uyên bác và có một trái tim giàu tình yêu thương, đồng cảm sâu sắc với những mảnh đời khốn khó. Từ nhỏ, Nguyễn Du đã được coi là một thiên tài văn học, một bậc thầy về chữ Quốc ngữ, một ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại một kho tàng văn học phong phú gồm hơn 1.000 tác phẩm bằng chữ Hán và Nôm. Được viết bằng chữ Nôm, Truyện Kiều là một kiệt tác dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của nhà văn tài hoa Thanh Tâm tài nhân, nhưng được trau chuốt và chuyển thể một cách điêu luyện cho phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu chuyện được kể trong câu 3,254, và đoạn trích Trao Duyên bắt đầu từ câu 723-756.

Sau khi nhờ cậy em gái trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho Thúy Vân:

"Chiếc vành với bức tờ mây

 

Duyên này thì giữ vật này của chung"

"Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền" là những kỷ vật thiêng liêng, gắn với mối tình Thúy Kiều và Kim Trọng. “Duyên này thì giữ” là những tiếng lòng đau đớn của Thúy Kiều khi nàng trao đi kỉ vật nhưng không thể quên được kỷ niệm tình yêu đôi lứa sâu đậm, nồng nàn. “Của chung” ám chỉ những kỷ vật ấy từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung của cả 3 người: Kim, Kiều, Vân. Câu thơ thốt lên sự đau đớn, tiếc nuối của người con gái vì gia đình mà hi sinh mối tình sâu nặng của mình. “Ngày xưa”: Mọi kỉ niệm chỉ còn là quá khứ. Sự luyến tiếc chảy tràn trong lời thơ chính là sự mâu thuẫn giằng xé giữa lý trí với tình cảm trong tâm trạng của Thúy Kiều.

Dù kỉ vật đã dặn lòng để trao lại cho em, Thúy Kiều nhắc nhở Thúy Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu thì đừng quên chị:

"Dù em nên vợ nên chồng

 

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

 

Mất người còn chút của tin

 

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

Gửi em một kỷ vật lưu niệm cũng là một cách để chàng nhớ đến mình. Nếu sợi tơ duyên đẹp đẽ ấy mất đi, cuộc sống trên cõi đời này thật vô nghĩa. Kiều mong Thuý Vân hãy còn giữ kỷ vật và nhớ về người chị “bạc mệnh” này. Chút níu giữ kỷ vật làm tin giờ cũng trao đi rồi, chỉ còn "phím đàn” còn lại bên mình như để mỗi khi tiếng đàn vang lên nàng mong ai đó sẽ nhớ tới mình. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:

"Mai sau dù có bao giờ

 

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

 

Trông ra ngọn cỏ lá cây

 

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"

Nguyễn Du sử dụng từ ngữ mang tính giả định "mai này", "dù có" để thấy được tâm trạng ngổn ngang của Kiều khi tưởng tượng về cảnh ngộ tăm tối của mình trong tương lai với những liên tưởng đến cái chết qua từ "Hồn" . Một nghịch cảnh hiện ra khi một người con gái đang độ xuân sắc của cuộc đời, nhưng vẫn nghĩ về cái chết. Tâm nguyện duy nhất của nàng là mai sau Thúy Vân sẽ nhớ đến hồn nàng để nàng bớt lẻ loi, cô đơn. Khi chơi đàn, thắp hương, hay trông ra ngọn cỏ lá cây thì nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, dù chết nàng cũng chỉ biết nương vào cỏ cây, không biết bấu víu vào đâu. 

"Hồn còn mang nặng lời thề

 

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

 

Dạ đài cách mặt khuất lời

 

Rưới xin giọt nước cho người thác oan"

"Bồ liễu" ám chỉ người phụ nữ yếu đuối, "Dạ đài" chỉ Âm phủ, "Thác oan" chỉ cái chết oan khuất. Bằng một loạt các từ ngữ tả thực đã gợi lên cuộc sống nơi âm phủ đầy tâm linh, ma mị. Lời thơ như cất lên dự cảm về cái chết đầy oan khuất, linh hồn không thể siêu thoát của Kiều. Lời thề, lời hứa thay chị trao duyên cho chàng Kim của Thúy Vân không có nghĩa là Kiều đã hoàn toàn từ bỏ và lãng quên mối tình của mình. Ngay cả khi chết, nàng vẫn “nặng lòng với lời thề”. Nàng tự so sánh mình với “liễu”, “trúc”, tuy mảnh mai, yếu ớt nhưng cao lớn. Khát vọng ấy bị cuốn đi khi bị tước đoạt quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Bằng nghệ thuật tái hiện, miêu tả đời sống nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động và cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được cảm giác vật vã, đau đớn, rồi tắt dần thành tiếng kêu than, ai oán của Thúy Kiều. Đó là nỗi đau tột cùng của Kiều khi phải từ bỏ tình yêu của mình và Kim Trọng. Thời gian đã trôi qua hàng trăm năm nhưng đoạn trích Trao duyên nói riêng và kiệt tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài nghệ miêu tả tâm lí nhân vật đỉnh cao của Nguyễn Du.

Mẫu số 2

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ''Truyện Kiều''. Đoạn trích "Trao Duyên" trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở những câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp, Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.

Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:

''Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa''

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu "chiếc vành", ''bức tờ mây'' rồi đến ''phím đàn'', ''mảnh hương nguyền'' cho Thúy Vân. Kiều đưa cùng một lúc nhưng là đưa từng món một. Mỗi món đều gắn với một kỉ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình nồng nàn. Tưởng như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỉ vật, nhớ lại từng kỉ niệm với nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho mối tình tươi thắm ngày nào. Với Vân, có thế đó là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm... gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, nàng căn dặn em ''Duyên này thì giữ vật này của chung''.

''Duyên này'' là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỉ vật này thì xin em hãy coi là ''của chung'' bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ''lỗi thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi.

Những tưởng rằng trao xong ''duyên'' là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, con đường phía trước sẽ không còn gì níu kéo nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo, đau đớn. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ "dù em nên vợ nên chồng" - Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. ''Mất người còn chút của tin'' Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không thanh thản, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Nàng đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.

Nhưng có điều đặc biệt nằm ở chữ ''giữ'' và ''của chung''. ''Giữ'' không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ''giữ'' hộ. Còn chữ ''của chung'' lại thể hiện tâm lí là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nấc chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả đã thành quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một mai sau mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ cứ hiện ra và rõ nét dần

''Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai''

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một hơi thơ khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của Thúy Kiều với Kim Trọng mà sao lời lẽ bất chợt trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ''mai sau'', ''bao giờ'', không khí linh thiêng ''đốt lò hương'', ''so tơ phím'', hình ảnh phất phơ, ma mị ''ngọn cỏ lá cây'', ''hiu hiu gió'',... bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.

Nàng tưởng tượng đến cảnh sum họp của Trọng - Vân, còn mình chỉ là linh hồn ''xương trắng quê người'' vật vờ cô độc, bất hạnh nhưng vẫn ''mang nặng lời thề'', vẫn khát khao mong muốn được theo làn gió nhẹ ''hiu hiu'' trên ''ngọn cỏ lá cây'' để trở về cõi thế gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao cho em, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi chàng Kim, còn mang nặng lời thề trăm năm gắn bó. Thế mới biết nàng có tình yêu thủy chung, mãnh liệt đến mức nào. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn em:

''Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan''

Nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc. ''Dạ Đài" là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ''cách mặt khuất lời'' linh hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người yêu thương nên chỉ xin Trọng một ''chén nước'' để làm phép tẩy oan. Điều đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt...Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch.

Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái nhạy cảm, vị tha và giàu lòng yêu thương. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, nỗi đau đớn của người con gái bất hạnh này

Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc nhưng người đau khổ nhất vẫn là nàng. Nhờ thế mà đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối ới những đau khổ và khát vọng hạnh phúc, tình yêu của con người. 

Mẫu số 3

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm "Truyện Kiều", tiêu biểu nhất là ở đoạn trích "Trao duyên". Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân "chắp mối tơ thừa" với Kim Trọng. Và nó thể hiện rõ nét hơn ở 14 câu giữa của bài Trao khi Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.

Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Và nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này?

Những kỉ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:

"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung"

“Chiếc vành - Tờ mây” là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỉ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”.

Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn. Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỉ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.

Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.

"Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa”, là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.

Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:

"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan"

Cho dù Thúy Kiều có "thịt nát xương mòn" thì cũng mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng không quên mình. Nàng còn chỉ cho Thúy Vân biết dấu hiệu để nhận ra khi mình trở về: "Thấy hiu hiu gió thì hay chị về". Một con người nặng tình nặng nghĩa như Thúy Kiều không thể lãng quên lời thề của mình với chàng Kim nhanh như vậy được. Ngay cả khi là một linh hồn chốn cửu tuyền thì nàng vẫn "mang nặng lời thề". Đó là lời thề thủy chung son sắt trọn đời bên nhau cùng Kim Trọng. Lời thề thủy chung ấy nàng sẽ khắc cốt ghi tâm cả cuộc đời không quên. Thế giới cõi âm và thế giới ở trần gian "cách mặt khuất lời" nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân "rưới xin giọt nước" cho linh hồn oan khuất của mình. Thúy Kiều đang còn sống mà tâm trí thì nghĩ về cái chết - cái chết oan khuất của một con người mệnh bạc.

Qua đây ta thấy hậu quả mà xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc.

Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.

Mẫu số 4

Nguyễn Du không chỉ là danh nhân văn hóa thế giới mà ông còn là đại thi hào dân tộc, một thiên tài văn học của nước nhà. Ông vốn được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công của xã hội bấy giờ, và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với thân phận bất hạnh của người phụ nữ. Bởi lẽ đó, ông đã viết nên thi phẩm tuyệt bút “Truyện Kiều”, tác phẩm như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Nổi bật trong đó là đoạn trích “Trao duyên” thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh, nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đồng thời cho thấy tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du. Nếu như 12 câu đầu Kiều đã thuyết phục được Thúy Vân thì 14 câu sau nàng bắt đầu trao cho TV kỉ vật tình yêu và dặn dò em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

 

Duyên này thì giữ vật này của chung.

 

Dù em nên vợ nên chồng,

 

Xót người mệnh bạc ắt long chẳng quên.

 

Mất người còn chút của tin,

 

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

 

Mai sau dù có bao giờ,

 

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

 

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

 

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

 

Hồn còn mang nặng lời thề,

 

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

 

Dạ đài cách mặt khuất lời,

 

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”

Cứ ngỡ hai người “Trai anh hùng – gái thuyền quyền/Phỉ nguyền sánh bước đẹp duyên cưỡi rồng” nào ngờ lại bị cách xa một đời bởi một lí do hết sức đau đớn. Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và em. Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Những câu thơ đầu nói về việc Thúy Kiều tìm cách thuyết phục Thúy Vân, vừa thuyết phục vừa ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho KT. Sau khi TV đã cảm thông, TK đem các vật đính ước trao lại cho em gái:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

 

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Giây phút trao kỉ vật của tình yêu là phút giây thiêng liêng, cảm động và rất đau lòng. Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Đứng trên góc độ người đọc như chúng ta thì kỉ vật đó chẳng đáng là bao, nhưng đối với Kiều, đó là định ước tình yêu thiêng liêng giữa hai người mà cô trân trọng hơn bao giờ hết. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên nên cũng phải trao cả những kỉ vật tình yêu cho em. Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình của mình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm thật nữa, trái tim nàng đã bắt đầu lên tiếng. Ta có thể cảm nhận được sự ngập ngừng, luyến tiếc của Kiều, lí trí bảo phải trao đi nhưng trái tim lại một mực muốn giữ lại.

“Duyên này” từng chớm nở từ buổi gặp nhau giữa Kim – Kiều mà giờ đây đã trở thành duyên giữa Kim và Vân. “Vật này” từng tượng trưng cho tình yêu thiêng liêng Kim – Kiều mà giờ đây đã trở thành “của chung” của Kim – Vân – Kiều. Một tình cảnh hết sức ngang trái, đưa cả ba con người vào vòng xoáy đớn đau không thể tả xiết. Duyên của chị cũng đã trao hết cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy cho nó là một phần của chị, hãy cho nó là “của chung”. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Xã hội đưa Kiều vào cảnh ngộ phải lỗi thề nhưng lòng nàng không quên được lời thề, không đoạn tuyệt với mối tình được. Đó chính là bi kịch tình yêu của TK.

Kể từ giây phút này, tiếng nói tình cảm đã dần thay tiếng nói của lý trí. Kiều hi vọng cho TV và KT “nên vợ nên chồng” để trong hạnh phúc gia đình ấy, kỉ niệm về nàng vẫn tồn tại:

“Dù em nên vợ nên chồng,

 

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

 

Mất người còn chút của tin,

 

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn, nó đọng lại ở câu: “Dù em nên vợ nên chồng”. Từ “dù” ở đầu câu thơ như một giả thiết mơ hồ hi vọng. Kiều biết chắc chắn thế nhưng vẫn mong điều ấy đừng đến. Phải chăng, ND đã nhập tâm vào nhân vật TK, thấu hiểu từng nỗi niềm tâm sự của nàng đề nói lên tiếng nói giúp nàng? Chủ nghĩa nhân đạo của ND sâu sắc biết chừng nào.

Không chỉ trao các kỉ vật đính ước, mà Kiều còn trao những kỉ vật chứng kiến việc thề nguyền đính ước giữ K và KT. Khi trao các kỷ vật này, K như sống lại với đêm thề nguyền đính ước qua cách nói “phím đàn”, mảnh hương nguyền” và “Đốt lò hương ấy so tơ phím này” Những chi tiết trên cho ta thấy trong tâm hồn Kiều, những kỷ niệm đẹp về tình yêu có sức sống mãnh liệt. Tình yêu của nàng thật sâu sắc biết nhường nào.

Mẫu số 5

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong việc khắc hoạ diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng của ông được thể hiện xuyên suốt Truyện Kiều, đặc biệt là ở đoạn Trao duyên, thể hiện tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi nàng mong Thúy Vân “kết nghĩa” với Kim Trọng. Và có thể thấy rõ hơn ở 14 câu giữa của bài là đoạn Kiều trao cho Vân trả nghĩa Kim Trọng

Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đẹp nhất khi nàng phải ra đi đột ngột vì Kiều đã bán mình cứu cha và em. Họ đã có một lời hẹn ước thiêng liêng và lãng mạn, nhưng trong hoàn cảnh gia đình thuở nhỏ, số phận đã chọn lòng hiếu thảo của nàng Kiều thay công sinh thành và giáo dục của cha mẹ.

Và Thúy Kiều đã trao tình yêu cho Thuý Vân mà lòng Thúy Kiều còn chất chứa bao cảm xúc. Sự trả lại của vật chất còn dễ hình dung và so đo, nhưng Thúy Kiều trao duyên sao có thể kết thành tình yêu như vậy?

Kỷ vật tình yêu như vòng tay, tờ giấy lời thề của cả hai , Thúy Kiều gửi cho Thúy Vân:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành – Tờ mây” đó là lời thề, là sự xác nhận tình yêu đôi lứa Kim Trọng – Thúy Kiều. Ở cái “bạch đầu răng long” của Kiều, Kiều trân trọng hai điều. Nhưng mất đi nghĩa là Kiều và Kim chẳng còn là gì, tình yêu tan vỡ không thể cứu vãn. Vì thế, mỗi kỉ niệm tài hoa cũng giống như mối tình cuối rời tay Kiều. Giọng nghe bình thường, như thể sau mỗi câu nói vẫn còn một tiếng nấc nghẹn ngào. Trao “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết thúc bằng hai từ “của chung”.

Tình yêu với ai là sự sống và tinh thần, nên không thể nói rằng sẽ từ bỏ. Nguyễn Du cuối cùng đã cho Kiều trở về với cô gái yếu đuối nằm trong vòng xoáy tâm lí thường tình, cái được mất càng quan trọng bao nhiêu thì cảm nhận về giá trị đích thực của nó càng mãnh liệt bấy nhiêu. Vì thế, “của chung” trong tiếng Kiều mang nhiều giằng xé, mâu thuẫn. Tưởng chừng như lý trí đã quyết định từ bỏ nhưng trái tim lại không thể nghe theo. Là một món quà lưu niệm nhưng vẫn níu giữ được tình cảm và kỷ niệm cho Kiều. “Sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch tuyệt vọng do chính nàng tạo ra khi nhìn trước ngó sau, vẫn vẹn nguyên như cũ, chỉ thiếu bóng mình.

“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Đâu phải khổ vì tương lai, nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, sự trọng nghĩa của Kim Trọng đã trả xong, Vân đã có hạnh phúc cho mình, Kiều cũng đã đền đáp được chứ hiếu cho cha mẹ. Nhưng Kiều vẫn chưa yên vì hạnh phúc trong đời Kiều là Kim đã thuộc về người khác. Đã không có chỗ cho Kiều trong tương lai. Kiều cô đơn, bơ vơ bên bờ hạnh phúc. Chẳng còn gì cho Kiều , cái thân “hồng nhan bạc mệnh” này chỉ còn chờ đợi “chút của tin” và nhớ nhung không quên ngày xưa. Bây giờ vẫn còn “một chút tin tức” nhưng đó chỉ là “thời xưa” gợi lại những kỷ niệm đã qua của Kiều, còn tương lai là của Vân. Từ xa “ngày xưa” vang lên chua xót gọi về một tình yêu mới đẹp như hôm qua giữa Kim – Kiều. Giờ đây, nhớ lại kỉ niệm tình yêu nồng ấm với “phím đàn với mảnh hương nguyền” dường như Kiều càng đau đớn hơn.

Kiều thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, nàng cảm thấy tương lai sống hay chết thì cũng chẳng mấy khác biệt:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Dù Thúy Kiều có”thịt nát xương mòn” mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng cũng đừng quên mình. Kiều cũng chỉ ra dấu hiệu của Thúy Vân để nhận biết mình khi trở về: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Một người nặng tình như Thúy Kiều sao có thể quên lời thề với chàng Kim nhanh chóng như vậy. Dù cho linh hồn có ở nơi vĩnh hằng thì vẫn “mang nặng lời thề”. Đó là lời thề suốt đời chung thuỷ với nhau với Kim Trọng. Kiều khắc ghi lời thề trung thành này trong tim cho đến cuối đời. Thế giới âm phủ và thế giới trần gian đều “cách mặt khuất lời” nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân cho “rưới xin giọt nước” cho oan hồn của mình. Thúy Kiều còn sống nhưng tâm hồn hướng về cái chết – cái chết oan uổng của một kẻ bạc mệnh.

Qua đây ta thấy hậu quả, khi xã hội xưa hành hạ con người đến tận cùng, cướp đi quyền được yêu và quyền hạnh phúc, khiến một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại nghĩ đến cái chết. Kiều chiến đấu một cách tuyệt vọng, muốn biết tại sao Kiều phải hy sinh bản thân, đầu hàng số phận, chịu đựng cuộc đấu tranh không vì lỗi của ai. Kiều không thể chia sẻ nỗi bất đắc dĩ này với bất kỳ ai, sẽ không ai hiểu nên vẫn đi vào ngõ cụt.

Và nhà văn nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy nỗi khốn cùng ấy của con người trong xã hội cũ và để cho sự tự nhận thức về cuộc đời, về số phận, về phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ một cách rõ nét và kịch tính như vậy. Nhà thơ bày tỏ sự bảo vệ của mình trước nhu cầu hạnh phúc cơ bản của con người.