BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà không chỉ thể hiện phong cách thơ lãng mạn mà còn phản ánh sâu sắc triết lý nhân sinh của tác giả. Phân tích tác phẩm này sẽ giúp khám phá sự kết hợp tinh tế giữa hình ảnh thiên nhiên và tâm tư nhân sinh, tạo nên một bức tranh đa chiều về cuộc sống và vũ trụ.

Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

I. Mở bài:

- Giới thiệu bài thơ Hầu trời

Với phong cách thơ lãng mạn, phóng khoáng, ngông nghênh, thể hiện sự ứu ái và cảm thương của tác giả. Thơ văn của ông giữa hai giai đoạn trung đại và hiện đại nên những tác phẩm của ông mang một vẻ đẹp và sự độc đáo khác nhau. Một trong những tác phẩm đặc sắc và thể hiện rõ sự phóng khoáng của Tản Đà là tác phẩm Hầu trời. tác phẩm nói lên sự ngông nghênh của tác giả đối với trời, xem trời như là bạn của mình. Chúng ta cùng đi tìm hiểu cái ngông của Tản Đà.

II. Thân bài:

- Phân tích bài thơ hầu trời

1. Mở đầu bằng cách giới thiệu câu chuyện:

  • Câu chuyện xảy ra vào đem qua, một khoảnh khắc yên lặng, yên tĩnh
  • Câu chuyện kể về giấc mơ muốn lên cõi tiên của tác giả, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người thi nhân
  • Tâm trạng nữa thực nữa mơ của thi nhân

2. Thi nhân đọc thơ cho trờ và Chư tiên nghe

  • Đọc thơ một cách hào hứng
  • Thi nhân kể về cuộc sống và công việc của mình
  • Giọng thơ của thi nhân hóm hỉnh, ngông

3. Thái độ của người nghe:

  • Trời tỏ ra rất tâm đắc và khen ngợi thi nhân
  • Chư Tiên nghe thơ rất xúc động và tâm đắc

4. Thi nhân trò chuyện với trời:

  • Khẳng định cái tôi của mình
  • Cuộc sống nghèo khó nhưng thư thái của tác giả
  • Cảm hứng nghệ thuật bao trùm nguyên bài thơ

III. Kết bài:

- Nêu cảm nhận của em về bài thơ Hầu trời

Ví dụ:

Hầu trời là một bài thơ thể hiện sự ngông cuồng của tác giả, sự hóm hỉnh, vui đùa đã khiến hco bài thơ trở nên độc lạ và thú vị hơn.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà chọn lọc hay nhất

Tản Đà, một nhà thơ đặc biệt, được gọi là "người của hai thế kỷ" nhờ học vấn, phong cách sống và sự nghiệp văn học nổi bật. Thơ của ông nổi bật với tâm hồn lãng mạn và cảm xúc sâu lắng. Trong khi nhiều văn bản thuộc thời kỳ trước dần bị lãng quên, Tản Đà đã tìm về với nguồn cảm hứng từ thơ ca dân gian và dân tộc, tạo nên những tác phẩm độc đáo và sáng tạo. Thơ của ông như là cầu nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: Trung đại và hiện đại, với bài thơ "Hầu Trời" là một ví dụ tiêu biểu của giai đoạn này.

Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ đầy ấn tượng, tạo ra một mối nghi ngờ để khơi gợi sự tò mò của người đọc:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

"Bốn câu thơ đầu tiên đã tạo ra một ấn tượng sâu sắc với người đọc, mang đến một cảm giác mơ hồ, như thể câu chuyện có thể là trí tưởng tượng hoặc bịa đặt, không rõ thực hư. Tuy nhiên, ngay sau đó, tác giả đưa ra ba câu thơ tiếp theo với sự khẳng định chắc chắn, như đinh đóng cột, lặp đi lặp lại để củng cố niềm tin (với hai lần phủ định ‘chẳng phải’, ‘không’ và bốn lần khẳng định ‘thật…’). Điều này tạo cảm giác rằng câu chuyện sắp được kể là thật và đặc biệt hấp dẫn, không thể bỏ qua. Những khẳng định và phủ định này phản ánh sự chắc chắn và tâm trạng của tác giả khi miêu tả cảm giác “sướng lạ lùng” khi được mời lên thiên đình đọc thơ cho Trời và các chư tiên. Cảm giác này, kết hợp với phong cách viết hóm hỉnh, dí dỏm, làm cho bài thơ trở nên cuốn hút và đáng khám phá.

Tản Đà tiếp tục kể về việc ông được mời lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và các chư tiên. Cảnh tượng này được miêu tả một cách chi tiết và sinh động. Khi lên thiên đình, nhà thơ Tản Đà được Trời sắp xếp ngồi "ghế bành như tuyết vân", được phục vụ nước nhấp giọng và nhận lệnh "Văn sĩ đọc văn nghe" từ chính Trời. Trong cảnh đọc thơ cho Trời, tác giả tạo nên một bức tranh hùng vĩ và kỳ diệu về cõi tiên, nơi văn sĩ được tôn vinh và ca ngợi với sự yêu thương từ các chư tiên. Cảm giác phấn khích và tự hào khi làm nghệ sĩ tài hoa được thể hiện rõ nét trong bài thơ của tác giả."

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”

 Vừa đọc, nhà thơ vừa tự đắc:

“Văn dài hơi tốt ran cung mây

Trời nghe trời cũng lấy làm  hay

…..

Văn đã giàu thay lại lắm lối…”

Chư tiên nghe xong rất xúc động hâm mộ:

“Tâm như mở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay

….

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

Anh gánh lên đây bán chợ “

Trời cũng đánh giá cao và không ngớt lời tán dương:

“Trời lại phê cho “Văn thật tuyệt”!

Văn trần được thế c hắc có ít

Nhời văn chuốt đẹp như sao bang

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển

Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương

Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”

Nhà thơ Tản Đà thể hiện sự tự tin và khí phách rõ rệt khi mượn lời của chư tiên và Trời để ca ngợi thơ của mình. Với giọng điệu hài hước, dí dỏm nhưng cũng đầy kiêu hãnh, ta cảm nhận được tâm hồn chất phác và thẳng thắn của thi sĩ. Ông tự hào về tài năng của mình và không ngần ngại bộc lộ "cái tôi" cá nhân, của một nghệ sĩ thực thụ. Tản Đà còn thể hiện tinh thần ngông cuồng khi sẵn sàng đến tận thiên đình để khẳng định bản thân trước Ngọc Hoàng và chư tiên, thể hiện niềm khao khát được công nhận và vinh danh. Trong bối cảnh văn chương bị coi thường, ông không tìm thấy tri kỷ, tri âm và đã quyết định lên cõi tiên để thực hiện ước mơ của mình.

Tản Đà cũng phác họa chân thực và cảm động cuộc đời mình và của nhiều nhà văn khác – những nỗi khổ đau, tủi hổ của người nghệ sĩ trong xã hội phong kiến thực dân thời bấy giờ.

“Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó

Giấy người, mực người, thuê người in

Mướn cửa hàng người bán đường phố

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”

Cuộc đời của Tản Đà thật sự đầy thử thách và gian truân: ông sống trong cảnh nghèo khổ, không có chỗ đứng vững chắc, và thường xuyên cảm thấy bị coi thường và gò ép. Những khó khăn, thiếu thốn và áp lực từ nhiều phía khiến ông cảm thấy cuộc sống trần thế thật chán nản, và thường xuyên than thở về sự không thỏa mãn. Chính vì vậy, Tản Đà tìm đến cõi tiên, mong mỏi gặp gỡ Hằng Nga, Ngọc Hoàng và các chư tiên, để thỏa mãn những khao khát của mình. Ông tin rằng nơi đó có thể mang đến sự công nhận và giá trị thực sự mà ông không thể tìm thấy trong cuộc sống thực tại. Đây là nơi ông có thể tìm thấy niềm tin và sự thanh thản, thoát khỏi cảm giác thất vọng và khát khao không có điểm tựa ở thế gian phù phiếm.

Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà là một tác phẩm độc đáo và đặc sắc, phản ánh rõ nét tính chất giao thời trong nghệ thuật thơ của ông. Bài thơ không chỉ thể hiện sự phát triển của thơ Việt Nam trong những năm 1920, mà còn cho thấy cách tiếp cận nghệ thuật tinh tế của Tản Đà. Thay vì trực tiếp đối diện với các vấn đề xã hội bằng những từ ngữ mạnh mẽ, ông chọn cách sử dụng lối viết hài hước và các hình ảnh ẩn dụ để thể hiện những cảm xúc, khao khát và tâm trạng của mình. Những khó khăn và cảm xúc về cuộc sống được ẩn chứa khéo léo trong từng câu thơ. Nhờ vậy, "Hầu Trời" trở thành một tác phẩm nghệ thuật vừa sâu sắc vừa hấp dẫn, để lại dấu ấn quan trọng trong sự phát triển của thơ Việt Nam thời bấy giờ.