BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ Tràng giang của Huy Cận mang đậm nỗi buồn trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông và tĩnh lặng. Qua đó, tác giả bộc lộ tâm trạng cô đơn, hoài cổ, và niềm khao khát được gắn bó với quê hương, đất nước giữa dòng chảy cuộc đời.

Dàn ý phân tích Tràng Giang

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và đặc điểm thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phong trào thơ Mới. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một người dân ý thức sâu sắc về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người.

Giới thiệu về bài thơ Tràng giang: Tràng giang (rút trong tập Lửa thiêng) là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất của Huy Cận.

2. Thân bài

a) Nhan đề và câu thơ đề từ

Nhan đề: sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.

Câu thơ đề từ:

  • Trời rộng”, “sông dài” gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la
  • “bâng khuâng”, “nhớ” – một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.

=> Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

b) Khổ 1:

Thiên nhiên rộng lớn, mênh mông:

  • Hình ảnh ”sóng gợn”
  • Hình ảnh con thuyền “con thuyền xuôi mái nước song song” càng tô đậm thêm sự hoang vắng, cô quạnh của cảnh vật.

Tâm trạng của chủ thể trữ tình được bộc lộ một cách trực tiếp: buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài cùng cực, như không bao giờ nguôi, không bao giờ dứt trong tâm khảm của nhân vật trữ tình

c) Khổ 2

Bức tranh đã từng bước hoàn thiện hơn bằng những hình ảnh hết sức mới mẻ: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, chợ chiều, bến cô liêu gợi tả cảnh vật nhỏ bé, cô độc, thoáng lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp của cảnh vật nơi đây.

Âm thanh “tiếng chợ chiều” gợi nên sự mơ hồ, tàn tạ, hoang vắng.

“Sông dài trời rộng bến cô liêu” nhấn mạnh cái cô liêu của cảnh vật và sự lạc lõng, trống vắng, cô đơn của con người

d) Khổ 3

Khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn: hàng nối hàng, mênh mông

Hình ảnh “bèo”gợi sự nổi trôi, vô định

Cấu trúc phủ định “không cầu” – “không đò” đã phủ định hoàn toàn những con đường để kết nối với cuộc đời

e) Khổ 4

Hình ảnh thơ cổ điển “mây”, “chim” tác giả đã vẽ nên một bức tranh về quê hương, đất nước,.

Nỗi nhớ, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua hai câu thơ cuối bài.

3. Kết bài

Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

Phân tích bài thơ Tràng giang chọn lọc ngắn gọn

Mẫu số 1

Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi

Những câu thơ trên chứa đựng cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám, với bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, cùng tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về thiên nhiên, vũ trụ và những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh, kết hợp chất cổ điển và hiện đại tạo nên vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ "Tràng giang" tiêu biểu cho phong cách và hồn thơ Huy Cận, thể hiện nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, cùng nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín.

"Tràng giang" được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trước khung cảnh sống Hồng mùa nước lớn. Nhà thơ chứng kiến cánh bèo, cành củi trôi nổi giữa dòng nước mênh mông, tạo nên tứ thơ bao trùm nỗi buồn mênh mang vô tận. Ngay từ nhan đề "Tràng giang" đã gợi chất cổ điển rất riêng của Huy Cận, với từ Hán – Việt tạo không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. "Tràng giang" không phải con sông cụ thể mà dường như là con sông của lịch sử, văn học, thi nhân và cả cuộc đời. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ, mở ra không gian rộng lớn và cảm xúc thoáng buồn.

Khổ một mở ra không gian sông nước rộng lớn mênh mang:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Hình ảnh sóng gợn, con thuyền xuôi mái gợi nỗi buồn vô hạn. Hình ảnh con thuyền nhỏ bé, hữu hạn giữa dòng sông rộng lớn vô hạn, thuyền và nước chia tách càng tô đậm cảm giác nhỏ bé, cô đơn. Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé trôi dạt giữa dòng nước thể hiện sự giằng xé, chao đảo giữa cuộc đời, gợi lên hình ảnh một lớp người bế tắc, mất phương hướng trong xã hội. Khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước, thân phận nhỏ bé mất phương hướng, nét buồn phảng phất mênh mang, kết hợp cổ điển và hiện đại.

Khổ hai mở rộng không gian với cái nhìn bao quát toàn cảnh sông dài, trời rộng:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu"

Hình ảnh lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu, tiếng làng xa vãn chợ chiều gợi cảm giác tĩnh lặng, buồn vắng. Câu thơ "Nắng xuống trời lên sâu chót vót" mở rộng không gian theo hai chiều rộng dài và sâu. Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian đến vô cùng, cảm giác cô liêu, lẻ loi của con người càng được nhấn mạnh.

Khổ ba tiếp tục hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"

Hình ảnh bèo dạt hàng nối hàng diễn tả sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người, gợi cảm giác lênh đênh, trôi dạt vô định. Hình ảnh đò và cầu không tồn tại trong bức tranh sông nước càng nhấn mạnh sự cô đơn, hoang vắng. Không gian tiếp tục được mở rộng với bờ xanh và bãi vàng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, buồn vắng.

Khổ bốn bộc lộ tâm tình tác giả:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Hình ảnh mây cao, núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ gợi cảnh hoàng hôn, buổi chiều sông nước. Câu thơ "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" mượn ý thơ của Thôi Hiệu, gợi nỗi nhớ quê hương, tình yêu đất nước sâu lắng. "Tràng giang" thể hiện tâm tư của lớp người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng nhưng tình yêu quê hương đất nước vẫn mãnh liệt và bền vững.

Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại, tạo nên một thi phẩm độc đáo, thể hiện tâm tư sâu sắc và tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận.

Mẫu số 2

Huy Cận là một nhà thơ nổi bật của văn học Việt Nam, đồng thời là một chiến sĩ cách mạng, những trăn trở về thời cuộc đã được ông khắc họa rõ nét trong các tác phẩm. Khi ông chiêm ngưỡng cảnh vật trôi trên dòng Tràng Giang sâu thẳm, dòng sông ấy trở thành tiếng lòng của con người.

Toàn bộ bài thơ đượm buồn, lan tỏa khắp không gian, với những câu thơ nhẹ nhàng, thiết tha, tạo nên giá trị sâu sắc và da diết. Mở đầu bài thơ, tác giả đã thể hiện một cung bậc cảm xúc buồn bã, mang đậm dấu ấn cá nhân.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu bài thơ là việc tác giả mượn hình ảnh sóng để diễn tả tâm trạng chính mình. Sóng gợn trên Tràng Giang gợi nỗi buồn man mác, dòng nước trôi mang theo những cảm xúc và tình cảm cháy bỏng. Sóng không chỉ thể hiện sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn, mà còn nhân lên nỗi buồn, tạo nên nhịp điệu riêng, đậm chất cuộc sống.

Hình ảnh thơ giàu tính lãng mạn, thu hút người đọc vào những vòng cảm xúc riêng tư, tạo nên sự suy tư sâu lắng. Sóng vỗ bờ càng làm cho khung cảnh trở nên thơ mộng và huyền bí hơn, khiến những giá trị lớn của bài thơ trở nên mạnh mẽ và sâu sắc. Tràng Giang, dòng sông dài mênh mông, là biểu tượng cho tình người bao la nhưng cũng đượm nỗi cô đơn. Với hình ảnh và lời thơ mang đậm màu sắc, tác giả đã khắc họa những nốt nhạc buồn qua từng câu chữ.

Nỗi buồn bao trùm cùng không gian vô tận khiến tâm trạng con người trở nên mông lung, đầy ắp nỗi niềm. Những hình ảnh thơ mang giá trị và sức sống mạnh mẽ, thể hiện tình cảm sâu sắc của con người với cuộc sống và thiên nhiên. Cảnh tượng trên dòng Tràng Giang rộng lớn gợi cảm giác lạ lẫm, khi những con thuyền lững lờ trôi. Tác giả sử dụng các từ láy như "điệp điệp" và "song song" để diễn tả sự tăng lên của sự vật, trong đó "điệp điệp" thể hiện tâm trạng buồn bã, miên man vô tận của con người, khiến hình ảnh thơ càng thêm đậm sắc và giàu thi vị.

Hình ảnh thuyền xuôi mái diễn tả trạng thái tự nhiên của sự vật trên sông, nhưng khi sóng lăn tăn, tác giả đã thổi hồn vào thơ, làm tăng thêm nỗi buồn và cảm giác kỳ lạ. Thuyền cập bến, dòng sông lại buồn, khi tác giả nhân hóa dòng sông để biểu lộ chính nỗi lòng của mình. Những hình ảnh giàu ý nghĩa về sự sống và màu sắc đã mượn thuyền và sông để diễn tả tâm trạng. Trên dòng Tràng Giang, tác giả còn thấy cành củi khô trôi dạt, sử dụng đảo ngữ để nhấn mạnh sự bấp bênh, lạc lối của con người. "Củi một cành khô lạc mấy dòng" thể hiện số phận bấp bênh, cùng cách dùng ngôn ngữ giàu giá trị đã tăng thêm sức biểu cảm cho bài thơ.

Tác giả còn quan sát được rất nhiều thứ đang tồn tại xung quanh một dòng sông này, với những hình ảnh của cồn cát nhỏ, những ngọn gió đìu hiu thổi:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Những cơn gió nhẹ vẫn thổi trên dòng sông, gợi lên trong lòng người cảm giác man mác, với sóng vỗ vào rặng liễu đìu hiu, mang theo nỗi buồn nhẹ nhàng của con người. Giá trị của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh giàu sức biểu cảm, với "lơ thơ" diễn tả sự thưa thớt của sự vật. Trong không gian yên tĩnh, tiếng làng xa vọng lại khi chợ chiều vãn dần. Trên cao, tác giả ngắm nhìn những tia sáng hiu hắt, ánh nắng nhạt rọi xuống, tạo nên bức tranh thơ dài, thơ mộng, tràn đầy sức sống và cảm xúc, gợi nhớ về quê hương với bến sông cô liêu và dòng sông dài đậm chất buồn, gắn liền với nỗi nhớ và sự mênh mang của trời đất.

Hình ảnh thơ mang ý nghĩa lớn khi nói về sự phiêu bạt, không định hình, dùng thiên nhiên để thể hiện tâm trạng bản thân. Đây là phong cách nghệ thuật độc đáo, thu hút sự quan tâm của người đọc, với hình tượng thơ giàu giá trị, mang những cung bậc cảm xúc riêng biệt, sâu sắc cho từng người.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Ở đây câu thơ đã mang đậm cảm xúc về số phận lênh đênh chưa biết đi về đâu của con người, những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng sông, những cánh bèo trôi dạt trên dòng sông diễn tả những số phận hẩm hiu không biết đi về đâu của tác giả, một khoảng không gian mênh mông sâu lắng, và những cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng, đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát.

Cả bài thơ là những lời bộc bạch tâm trạng buồn cô đơn của tác giả, ở đây tác giả đã dùng hình tượng thiên nhiên để diễn tả cảm xúc của mình.

Mẫu số 3

Phong trào Thơ Mới đã làm nên tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó không thể không nhắc đến Huy Cận – một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi câu thơ của ông đều chất chứa nỗi buồn da diết, sầu muộn trước thời đại và xã hội mà ông đang sống. Ẩn sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước sâu nặng. "Tràng giang" là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài,” chỉ với bảy chữ nhưng đã bao quát được toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Câu thơ khơi dậy nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước khung cảnh mênh mông, rộng lớn. Từ láy “bâng khuâng” càng làm tăng thêm nỗi sầu và sự nhớ nhung miên man trong lòng thi sĩ, mở ra cho những câu thơ sau thêm tự nhiên, sâu lắng.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề "tràng giang," với cách điệp vần "ang" được sử dụng tinh tế, gợi lên hình ảnh một dòng sông dài rộng mênh mông. Hai chữ "tràng giang" vang lên càng làm tăng thêm âm hưởng của nỗi buồn da diết. Những con sóng nhẹ gợn trên mặt sông, dòng nước mang theo màu sắc tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là sự sâu lắng trong tâm hồn nhân vật trữ tình, với cụm từ “buồn điệp điệp” nhấn mạnh sự khắc khoải, chồng chất, nối tiếp nhau không dứt. Nỗi buồn tưởng chừng nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng nặng nề, thấm vào từng cảnh vật. Nổi bật trong không gian mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái,” nhỏ bé, cô đơn, trôi theo dòng nước. Con thuyền ấy lênh đênh, phiêu dạt như chính thi sĩ, cũng đang trống trải, lẻ loi, phó mặc cho dòng đời cuốn trôi.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:

Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở.

Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.

Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.