BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời tác giả, khi ông bắt gặp lý tưởng cách mạng. Bài thơ không chỉ phản ánh sự chuyển mình từ nhiệt huyết cá nhân thành sứ mệnh cộng đồng mà còn thể hiện sâu sắc niềm hạnh phúc khi gia nhập Đảng và những biến chuyển trong tâm hồn người chiến sĩ.

5 Mẫu phân tích bài thơ Từ ấy học sinh giỏi

Mẫu số 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, và trong những năm kháng chiến chống Pháp, có biết bao người đã ra trận, cống hiến và hy sinh cho Tổ Quốc. “Mặt trận nghệ thuật” là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo và thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, đồng thời làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Một trong những chiến sĩ – nghệ sĩ tích cực trong cả hai mặt trận kháng chiến và nghệ thuật là Tố Hữu, với bài thơ “Từ ấy” ghi dấu một kỉ niệm sâu đậm trong đời ông – một tiếng reo vui đầy tự hào khi giác ngộ lý tưởng cách mạng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

……………………………..

Không áo cơm cù bất cù bơ”

Trước khi đến với ánh sáng cách mạng, Tố Hữu, giống như bao thanh niên cùng thời, cũng có những ngày tháng bế tắc: “Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi/ Băn khoăn tìm lẽ yêu đời/ Vẫn vơ theo mãi vòng quanh quẩn/ Muốn bước than ôi bước chẳng rời”. Nhưng rồi ánh sáng của Đảng đã bừng sáng tâm hồn ông – tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng. Phút giây ấy đã thăng hoa cùng nhà thơ:

“Từ vô vọng, mênh mông đêm tối

Người đã đến. Chói chang nắng dội

Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu

Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu.”

Bài thơ mở đầu với niềm vui sướng và hạnh phúc tột đỉnh khi bắt gặp lý tưởng Đảng của cái tôi trẻ trung, đầy nhiệt huyết:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Sau thời gian hoạt động tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế, Tố Hữu được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Hai chữ “Từ ấy” là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong đời cách mạng và thơ của Tố Hữu khi mới 18 tuổi, đang “băn khoăn tìm lẽ yêu đời” và được giác ngộ lý tưởng cộng sản. Sự kiện khi ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam đã khiến nhà thơ bàng hoàng vì hạnh phúc. Nhà thơ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng hình ảnh “bừng nắng hạ”. Ánh sáng ấy không chỉ tràn ngập không gian bên ngoài mà còn tỏa ra từ tâm hồn nhà thơ, đánh thức một tâm hồn lạc lối để vượt qua u tối và vươn tới ánh sáng của ngày mới:

“Con lớn lên, con tìm cách mạng

Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi

Mẹ không còn nữa, con còn Đảng

Dìu dắt con khi chưa biết gì.”

Hình ảnh ánh sáng còn được làm rõ hơn trong câu thơ:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Đó là ánh sáng của mặt trời đặc biệt – mặt trời chân lí – ánh sáng của Đảng, của lý tưởng cộng sản với những tư tưởng mới mẻ, đúng đắn, tiến bộ làm xua tan ý thức hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra trong tâm hồn thi nhân một chân trời mới về tình cảm, nhận thức. Nếu mặt trời của thiên nhiên đem đến ánh sáng, hơi ấm và sức sống cho mọi loài thì Đảng cũng đem đến ánh sáng của niềm tin, hơi ấm của tình người, và sự sống cho dân tộc. Nhà thơ sử dụng động từ mạnh “chói” để miêu tả ánh sáng và sức mạnh xuyên thấu tư tưởng cộng sản đối với trái tim khao khát “lẽ yêu đời” của thi nhân.

Khi đến với hai câu tiếp theo, người đọc sẽ thấy được niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lý tưởng cộng sản:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Tố Hữu đã thành công trong việc dùng bút pháp so sánh “vườn hoa lá – đậm hương và rộn tiếng chim” để biểu đạt niềm vui sướng trong lòng người, tạo ra một thế giới tràn đầy sức sống. Đó là do ánh sáng chói chang ấm áp của mặt trời – sự hòa quyện giữa hình ảnh thực và ẩn dụ đã khẳng định tác động mạnh mẽ, kỳ diệu của lý tưởng cộng sản với trái tim con người. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên niềm yêu đời và sức sống mới trong tâm hồn cũng trở thành cảm hứng mãnh liệt cho thơ ca. Cách mạng không hề đối lập với nghệ thuật mà trái lại, ánh sáng kỳ diệu của lý tưởng cách mạng đã khơi dậy sức sống sáng tạo mới mẻ cho hồn thơ:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau

Đảng cho ta trái tim giàu

Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay”

(Bài ca xuân 61)

Khổ tiếp theo của bài thơ biểu hiện nhận thức và lẽ sống mới của cái tôi trữ tình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Giác ngộ lý tưởng, nhận thức, và lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với mọi người. Cụm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với các nhà thơ mới đương thời. Khi Tố Hữu giác ngộ cách mạng và đi theo lý tưởng, các nhà thơ mới lại đau buồn với cái tôi nhỏ bé, cô đơn.

Hai câu thơ sau khẳng định tình hữu ái giai cấp trong tình yêu thương của Tố Hữu với con người và cuộc đời:

“Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Nhà thơ hướng tình yêu thương của mình tới “mọi người”, “trăm nơi”, nhưng cụ thể hơn, đó là những con người thuộc giai cấp cần lao, những kiếp sống khốn khổ, bất hạnh. Câu thơ cuối khẳng định sức mạnh của tình đoàn kết qua hình ảnh ẩn dụ “khối đời” – một cộng đồng chung cảnh ngộ, số phận, khát khao và ý chí để cùng nhau hướng tới lý tưởng cao đẹp.

Khổ thơ cuối cùng là sự chuyển biến sâu trong tình cảm của thi nhân, là sự hóa thân của cái tôi vào cái ta chung của “kiếp phôi pha”:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình là thành viên thân thiết trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” khẳng định điều đó. Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng đông đảo. Họ là kiếp phôi pha là chị vú em với nỗi buồn thân phận:

“Nàng nhớ con nằm trong cửi lạnh

Không chăn, không nệm ấm không màn

Có biệt chăng trong những giờ hiu quạnh

Nó gợi tên nàng tiếng đã khàn”

Hay là hình ảnh lão đầy tớ với nỗi cơ cực thân già; là cô gái giang hồ trên sông Hương với bao nỗi nhọc nhằn của kiếp người:

“Em đi với chiếc thuyền không

Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!

Trời ôi, em biết khi mô

Thân em hết nhục giày vò năm canh”

(Tiếng hát sông Hương)

Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “em” … “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của ông. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc.

Mẫu số 2

Tố Hữu là một biểu tượng quan trọng trong phong trào thơ ca cách mạng. Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị văn học mà còn ghi dấu ấn lịch sử, phản ánh từng giai đoạn của dân tộc. Tập thơ Từ ấy (1939) đánh dấu sự khởi đầu thành công trong sự nghiệp của Tố Hữu, thể hiện niềm vui khi gia nhập Đảng và sự chuyển mình tích cực trong tâm hồn của một chiến sĩ cách mạng.

“Từ ấy, trái tim tôi chói lọi như nắng hạ

Mặt trời chân lý rực sáng trong lòng.”

Trong khổ thơ đầu tiên, niềm vui sâu sắc của Tố Hữu khi gia nhập Đảng được thể hiện một cách rõ ràng và mãnh liệt. “Từ ấy” không chỉ là một thời điểm quan trọng mà còn là mốc đánh dấu sự chuyển mình lớn trong cuộc đời ông, ngày ông chính thức trở thành một chiến sĩ Đảng. Khi gia nhập Đảng, cuộc sống của Tố Hữu được ánh sáng cách mạng chiếu rọi, làm cho trái tim ông rực sáng như ánh nắng mùa hè.

Ở câu thơ thứ hai, tác giả diễn tả niềm hạnh phúc khi trái tim ông trở nên sáng rực như nắng hạ từ khi gia nhập Đảng. “Mặt trời chân lý” tượng trưng cho Đảng, là nguồn sáng dẫn dắt con đường và triển vọng của thời đại. Gia nhập Đảng mở ra cho Tố Hữu một con đường mới đầy hy vọng, ánh sáng cách mạng giúp ông vượt qua sự đơn độc và hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc.

Cụm từ “chói qua tim” mạnh mẽ làm nổi bật tâm hồn lý tưởng cách mạng của Tố Hữu, ánh sáng từ Đảng chiếu sáng sâu vào lòng ông, xua tan mọi bóng tối.

Vườn của tôi tỏa sáng như rừng hoa lá

Hương thơm và tiếng chim rộn ràng.

Niềm vui, hạnh phúc, hân hoan của Tố Hữu hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên sống động. So sánh giữa “hồn tôi” và “vườn hoa lá” tôn lên sự chân thành, giản dị. Trước khi gia nhập Đảng, tâm hồn Tố Hữu như một khu vườn khô cằn, tăm tối. Từ khi “từ ấy” đến, khu vườn trở nên tràn đầy sinh khí từ nguồn sáng nắng hạ. Tâm hồn người chiến sĩ trở nên phong phú, rực rỡ. Niềm hạnh phúc toát lên từ sâu thẳm tâm hồn, reo vui qua thính giác và vị giác, đầy đặn và lãng mạn.

“Buộc lòng tôi với mọi người

Trải lòng với trăm nơi

Đồng hồn với bao hồn khổ

Gần gũi nhau, tạo nên khối đời mạnh mẽ.”

Khổ thơ thứ hai thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tâm hồn Tố Hữu. Khi gia nhập Đảng ở tuổi 18, tác giả đã nhận thức rõ ràng về sứ mệnh và trách nhiệm của mình. Từ một tâm hồn cá nhân còn bế tắc, Tố Hữu đã mở rộng tầm nhìn, hướng tới việc xây dựng một cộng đồng đoàn kết và gắn bó.

Người chiến sĩ cách mạng sống vì tổ quốc và dân tộc, hướng đến lý tưởng cách mạng cao cả. Tố Hữu đã mở lòng yêu thương những số phận kém may mắn và hòa mình vào khối đời chung, tạo nên sức mạnh tập thể. Gia nhập Đảng khi còn trẻ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mang đến cho ông một cuộc sống đầy ý nghĩa và thay đổi triệt để tâm hồn cũng như nhận thức. Cuộc đời mới mở ra, dù đầy gian lao, vẫn sáng lạn và đầy hứa hẹn.

“Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”

Tố Hữu đã trải qua một quá trình chuyển mình sâu sắc trong tình cảm và nhận thức. Ông không chỉ chiến đấu vì bản thân mà còn trở thành thành viên trong đại gia đình 54 dân tộc, yêu thương và chăm sóc mọi số phận, với khao khát mang lại hạnh phúc cho mọi người. Đây chính là ước mơ và lý tưởng cách mạng của một chiến sĩ trẻ, mở đầu cho hành trình giải phóng đầy gian lao.

Khổ thơ bộc lộ phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng, gương mẫu theo Hồ Chí Minh, sẵn sàng hy sinh vì nhân dân và tổ quốc. Tố Hữu thể hiện ý thức trách nhiệm sâu sắc, với lòng yêu thương và sẻ chia đối với những hoàn cảnh khó khăn. Đây chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh không ngừng.

"Từ ấy" là một tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Tố Hữu, thể hiện rõ sự chuyển biến từ niềm vui cá nhân đến nhận thức sâu xa về sứ mệnh và trách nhiệm. Thơ của ông vừa tự nhiên, vừa giàu hình ảnh và sáng tạo, ghi dấu ấn trong nền thơ trữ tình Việt Nam.

Mẫu số 3

Bài thơ “Từ Ấy” thuộc tập thơ cùng tên, được Tố Hữu viết vào năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành trong lý tưởng của một thanh niên cách mạng. Bài thơ thể hiện niềm vui sướng và hạnh phúc của một người trẻ tuổi khi tìm thấy ánh sáng của lý tưởng, Đảng và cách mạng.

“Từ ấy” không chỉ là một chỉ dẫn về thời gian mà còn là một mốc son quan trọng, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời và tâm hồn của nhà thơ. Khoảnh khắc đó mang đến niềm vui sâu sắc đến mức không thể diễn tả bằng lời, chỉ đơn giản là “từ ấy”.

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Nhà thơ đã khéo léo sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ như “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý”, “chói qua tim” để tạo nên hiệu quả nghệ thuật sâu sắc. Trong khi người thanh niên vẫn loay hoay trong bóng tối mù mịt của mùa đông, chưa tìm thấy hướng đi hay lý tưởng, thì mặt trời bỗng sáng rực lên, xua tan sự tối tăm và chỉ lối cho anh. “Bừng nắng hạ” không chỉ là ánh sáng mạnh mẽ của mùa hè mà còn là biểu tượng cho sự khai sáng và sự hiện diện của lý tưởng trong trái tim người chiến sĩ trẻ. Sự xuất hiện của lý tưởng Đảng và cách mạng đã chiếu sáng tâm hồn nhà thơ, thắp sáng cả những góc khuất nhất trong con người, giúp anh bừng tỉnh sau những đêm dài tăm tối.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, nhà thơ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời ấm áp và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót. Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự háo hức, say sưa, rạo rực và tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ khi tìm được lí tưởng của mình.

Từ giác ngộ lí tưởng, người chiến sĩ trẻ tuổi tiếp tục chọn cho mình một lẽ sống mới:

“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Nhà thơ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn. Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ cảm thông, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, gần gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi.

Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò, vị trí của mình:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu đã hòa nhập sâu sắc với nhân dân, tự nguyện trở thành thành viên trong đại gia đình của những người lao động vất vả. Ông đồng cảm với số phận của những người sống kiếp “phôi pha”, không biết ngày mai ra sao, và những đứa trẻ nghèo khổ, đói rách. Việc lặp lại từ “là” trong thơ của ông khẳng định chắc chắn mối liên hệ và vai trò của mình đối với cộng đồng, đồng thời thể hiện lòng xót thương sâu sắc trước sự bất công và nghịch cảnh của cuộc đời. Cụm từ “cù bất cù bơ” mang đến cảm giác chân thực, như lời nói thường ngày của những người lao động, phản ánh cuộc sống bơ vơ của họ.

“Từ ấy” không chỉ là tiếng reo vui của cá nhân nhà thơ mà còn là biểu hiện của cả thế hệ thanh niên khi tìm thấy lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu vì lý tưởng, nhân dân và tổ quốc. Họ là những chiến sĩ trẻ, đầy nhiệt huyết, lý tưởng và tình yêu đất nước. Thơ của Tố Hữu, với ngôn ngữ lãng mạn nhưng giản dị, gần gũi, đại diện cho một lớp nhà thơ mới, phản ánh tinh thần của nhân dân và các lý tưởng cao đẹp.

Mẫu số 4

Tố Hữu là một trong những nhân vật chủ chốt của phong trào thơ cách mạng Việt Nam, với những tác phẩm vừa tự sự vừa đầy cảm xúc. “Từ ấy” là một bài thơ trong tập cùng tên, được sáng tác vào năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Bài thơ thể hiện niềm vui mừng của tác giả khi gia nhập hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam.

“Từ ấy” không chỉ là một mốc thời gian, mà còn là dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của người thanh niên cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành cả về tinh thần lẫn lý tưởng cách mạng. Khoảnh khắc này khiến tác giả xúc động đến mức không thể diễn tả bằng lời, chỉ có thể gói gọn trong hai từ “từ ấy”. Đây là cảm xúc chính của bài thơ, phản ánh niềm vui rộn ràng và tình yêu tràn đầy của một người thanh niên khi được gia nhập Đảng. Sau sự kiện “từ ấy”, người thanh niên sẽ trải qua những chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc đời và trong hành trình cách mạng của mình.

Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn rang, tràn ngập tin yêu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian “từ ấy” đó chính là những bước ngoặc cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất. Từ “bừng” ở câu thơ đầu tiên như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý nghĩa là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình. Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác giả như bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của cuộc đời để đến với ánh sáng của cách mạng và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là “chân lý”, điều đáng trân trọng một đời.

Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự thức tính và giác ngộ cách mạng khiến tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến cuộc đời mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng dường như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.

Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mạng đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:

Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà

Để tình trang trải đến trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm vạn khối đời

Một khổ thơ vừa thể hiện rõ cái tôi cá nhân của tác giả, vừa phản ánh cái ta rộng lớn và bao la. Từ “buộc” trong câu thơ đầu tiên gợi ra sự kết nối sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng với mọi người. Từ “buộc” tượng trưng cho sợi dây liên kết, con đường và lẽ sống mà người chiến sĩ đã chọn và cam kết theo đuổi. Với lòng kiên định và tình yêu thương rộng lớn, người chiến sĩ mong muốn mang đến sự bình yên và ấm no cho nhân dân, đồng thời chia sẻ nỗi khổ cực với họ.

Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:

Tôi là con của vạn nhà

Là anh của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

Khổ thơ, mặc dù mang tính chất liệt kê, vẫn thể hiện rõ sự gắn bó, tình cảm và lòng tin yêu của người chiến sĩ đối với nhân dân. Việc lặp lại từ “là” nhấn mạnh sự kết nối tự nhiên và sâu sắc giữa tác giả và nhân dân, thể hiện sự đồng cảm và chia sẻ nỗi khổ, đồng hành trong mọi thử thách, không bao giờ lùi bước. Tinh thần này của tác giả thực sự đáng kính trọng và ngưỡng mộ. Tác giả xem mình như một phần không tên “cù bất cù bơ”, nhưng luôn giữ vững tinh thần đoàn kết và kiên cường.

Quả thực, “Từ ấy” là một bài thơ đầy ý nghĩa, đánh dấu sự trưởng thành của một cá nhân và một giai đoạn đầy thử thách trong hành trình cách mạng. Tiếng reo vui của tác giả hòa quyện với niềm vui chung của nhân dân.

Mẫu số 5

Khi đọc các vần thơ và bài thơ của Tố Hữu, chúng ta cảm nhận được một tâm hồn phong phú cảm xúc, trái tim nhân ái và lòng trung thành sâu sắc với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Tình cảm gắn bó và sự kết nối keo sơn với đồng bào và đồng chí cũng hiện rõ trong từng dòng chữ.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

Toàn bộ sáng tác của Tố Hữu đều được bao phủ bởi lý tưởng cách mạng, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, cũng như lương tâm, công lý và lẽ phải. Một trong những giá trị nổi bật của thơ Tố Hữu là sự hướng thiện, được thể hiện tinh tế và sâu sắc trong các tập thơ nổi tiếng như: "Từ ấy," "Việt Bắc," "Ra trận," và "Gió lộng."

Bài thơ "Từ ấy," sáng tác vào tháng 7 năm 1938, không chỉ là nhan đề của tập thơ đầu tiên của ông mà còn là tiếng nói của một thanh niên yêu nước Việt Nam, nhận thức sâu sắc lý tưởng Mác-Lênin trong thời điểm quan trọng của cách mạng.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một khoảnh khắc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến sâu sắc trong cuộc đời nhà thơ khi ông nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là một kỷ niệm đáng nhớ của người thanh niên yêu nước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng. Ở thời điểm đầu đó, những người như Tố Hữu, dù tràn đầy nhiệt huyết, vẫn chưa tìm thấy con đường trong cuộc sống dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, cảm thấy bối rối và mơ hồ về ý nghĩa cuộc đời. Trong bối cảnh ấy, lý tưởng cộng sản giống như ánh sáng mặt trời, xua tan mọi u ám, dọn dẹp sự tối tăm, mở ra cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp và một tương lai tươi sáng cho dân tộc.

Thanh niên Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng ấy không chỉ bằng trí thức mà còn bằng cả trái tim, không chỉ bằng lý trí mà còn từ tình cảm sâu sắc.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.