BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh, viết trong thời gian bị giam cầm, không chỉ miêu tả cảnh vật ở xóm núi mà còn phản ánh tâm trạng và khát vọng của tác giả. Qua những hình ảnh bình dị, Bác thể hiện một tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và con người, đồng thời bộc lộ tâm hồn đầy cảm xúc và nghị lực.

Dàn ý phân tích bài thơ chiều tối ngắn gọn

1. Mở bài

Khái quát về tác giả Hồ Chí Minh

Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm

2. Thân bài

Phân tích kĩ hơn hoàn cảnh sáng tác bài thơ

  • Trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo suốt một ngày dài với xiềng xích đi bộ đường rừng đến tận chiều tối mà chưa được nghỉ chân
  • Chiều tối sự chuyển giao giữa ngày với đêm và cảm xúc của Bác - một con người xa quê

Khung cảnh chiều tối nơi núi rừng

  • Bút pháp chấm phá
  • Bức tranh chiều đầy ấn tượng
  • Phong vị cổ điển của thơ đường thơ tống và sự sáng tạo riêng trong nghệ thuật của Bác

Vẻ đẹp tâm hồn Người

  • Bác xuất hiện như một con người đời thường hoà mình với cảnh vật thiên nhiên
  • Bao cảm xúc, bao khát khao chợt tràn về trong khung cảnh hùng vĩ ấy
  • Ý chí nghị lực phi thường của Bác
  • Bức tranh con người trong đời sống sinh hoạt
  • Hình ảnh con người trở thành trung tâm của bức tranh chiều
  • Cuộc sống lao khổ của người lao động

=> Tình yêu thương lòng nhân ái của Bác đã vượt qua biên giới bao trùm cả nhân loại

Sự vận động hình tượng thơ

Lặp từ điệp ngữ

Nhịp điệu câu thơ và ý nghĩa của nó

Phân tích rõ chữ "hồng" ở cuối câu

=> Cảm nhận về trái tim của Người

=> Trong thơ có cảnh trong cảnh có tình

Đáng giá khái quát về toàn bộ tác phẩm

3. Kết bài: Cảm nhận của bản thân

  • Về nghệ thuật
  • Về nội dung
  • Về tâm hồn bác trong bài thơ

Phân tích Chiều tối ngắn gọn chọn lọc

Mẫu số 1

Chiều tối là một tác phẩm được viết vào giai đoạn cuối của một chuyến đi dài, mang đến hình ảnh chiều tối nơi núi rừng, ánh lên sự ấm áp của cuộc sống con người. Bài thơ thể hiện tâm hồn nhạy cảm của thi nhân trước vẻ đẹp thiên nhiên, tấm lòng nhân hậu và phong thái ung dung hướng về ánh sáng và tương lai. Đây là sự kết hợp tinh tế giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.

Cảnh chiều tối đã là đề tài quen thuộc trong văn chương, thường gợi lên những cảm xúc buồn bã và hoang vắng. Tuy nhiên, qua bút pháp ước lệ và tượng trưng, tác giả đã tạo ra một phông nền mới cho cảnh chiều, mang đến một góc nhìn tươi sáng và đầy sức sống.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cánh chim và chòm mây là hai hình ảnh thường thấy trong thơ chiều xưa và nay, mang theo những ý nghĩa không gian và thời gian. Cánh chim, lấy cảm hứng từ nghệ thuật cổ phương Đông, thường được sử dụng để biểu thị cảnh chiều qua các biểu tượng ước lệ như “Phi yến thu lâm” hay “Quyện điểu quy lâm” trong thơ chữ Hán. Nguyễn Du, trong “Truyện Kiều”, đã thêm hình ảnh cánh chim bay về rừng vào bức tranh chiều: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Tương tự, Bà Huyện Thanh Quan viết: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”, và Huy Cận thấy bóng chiều như đang từ từ rơi xuống từ cánh chim nghiêng: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Trong cảm nhận của các thi nhân cổ điển, hình ảnh cánh chim là phần không thể thiếu để làm rõ sắc thái của cảnh chiều.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)

Bác đã đưa hình ảnh cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với hiện thực, thể hiện sự yêu thương và trìu mến đối với những biểu hiện nhỏ bé của sự sống. Quan sát cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày dài hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác là lòng yêu thương sâu sắc với sự sống, phản ánh cảm quan nhân đạo của ông.

Câu thơ thứ hai cũng đậm chất Đường thi, gần gũi với câu thơ “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc giữa bầu trời, thường gợi lên cảm giác cô đơn thanh cao và sự phiêu diêu, thường xuất hiện trong thơ cổ. Trong “Chiều tối” của Bác, chòm mây cô độc chỉ là một nét vẽ tạo không gian rộng lớn của cảnh trời chiều nơi miền núi. Bầu trời cần phải thật cao và trong xanh để làm nổi bật hình ảnh chòm mây cô độc, gợi lên cảm giác cô đơn giữa đất khách quê người. Mỗi chi tiết trong cảnh chiều đều phản ánh tâm trạng: cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù mệt mỏi vẫn chưa tìm được chỗ dừng chân; chòm mây lẻ loi trôi lững lờ, còn người tù cô đơn giữa buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ này đạt đến đỉnh cao của lối tả cảnh ngụ tình, thể hiện tâm hồn nhạy cảm của Bác trước thiên nhiên và sự sống, cùng với nghị lực phi thường của ông, chất thép trong thơ của Bác.

Trong hai câu thơ đầu, Bác đã dùng bút pháp cổ điển để dựng nên nền cảnh lớn cho bức tranh. Tuy nhiên, trong hai câu thơ sau, ông chuyển sang bút pháp hiện đại để làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

Trong thơ Bác, con người lao động hiện lên đầy sức sống. Hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên vẻ đẹp của bức tranh. Cô gái chăm chỉ xay ngô dường như không để ý đến những gì xung quanh; cối xay cứ quay đều đặn với âm thanh “ma bao túc” và “bao túc ma”, chỉ khi công việc xong, cô mới nhận ra “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” nổi bật giữa đêm tối làm nổi bật hơn hình ảnh người thiếu nữ. Trong khi toàn cảnh thiên nhiên chìm trong màu xám nhạt và tối, ánh lửa hồng từ lò than tạo nên một điểm sáng lôi cuốn đặc biệt. Kết thúc bài thơ bằng chữ “hồng” chính là chỗ đẹp nhất của tác phẩm, biểu trưng cho ánh sáng và hơi ấm của cuộc sống, hạnh phúc gia đình, và sự lạc quan. Chữ “hồng” không chỉ làm rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ mà còn xua tan sự buồn bã của cảnh chiều tối nơi núi rừng.

Hai câu thơ cuối cho thấy cái nhìn ấm áp và đầy yêu thương của Bác đối với con người lao động. Dù “Chiều tối” nơi miền rừng núi có thể rất buồn bã và hoang vắng, nhất là đối với người tù, nhưng trái lại, bài thơ lại vang lên tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài làm nên tiếng reo vui đó, tạo cho tác phẩm âm hưởng nồng ấm và tràn đầy sức sống.

“Chiều tối” là một tác phẩm vừa đậm màu sắc cổ điển vừa hiện đại, thể hiện vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ phản ánh tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác, đồng thời gắn liền với cảm quan nhân đạo và sự sống.

Mẫu số 2

Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh được viết từ ngày 2/8/1942 đến 10/9/1943, trong thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ một cách trái phép và đầy đọa tại các nhà tù ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ của tập thơ này, nhiều bài ghi lại những thời điểm đáng nhớ trong ngày như Buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm... Mỗi bài là một cảm xúc riêng biệt trong những tháng ngày "ác mộng".

“Chiều tối” (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt thứ 31 trong “Nhật ký trong tù”, ngay sau bài số 32, “Đêm ngủ ở Long Tuyền”. Bài thơ “Chiều tối” phản ánh cảnh xóm núi vào lúc hoàng hôn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.

Đây là nguyên tác hài thơ:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không,

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng''.

Một cái nhìn lãng đãng, một chút mơ mộng thầm lặng về một mái ấm, một nơi dừng chân của nhà thơ trên con đường lưu đày muôn dặm, được thể hiện qua bài thơ, mặc dù trông có vẻ như chỉ miêu tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.

Hai câu đầu tả bầu trời lúc hoàng hôn. Hình ảnh cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) bay về rừng tìm nơi trú ẩn, và áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) lững lờ trôi (mạn mạn) tạo nên một bức tranh thanh thoát. Cấu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu nhẹ nhàng, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước nhìn bầu trời, theo dõi cánh chim và áng mây trôi nhẹ, lòng cảm thấy man mác. Sự tinh tế trong việc miêu tả ngoại cảnh đã phản ánh tâm trạng nội tâm của nhân vật. Câu thơ dịch của Nam Trân dù chưa thể hiện hết chữ "cô" trong "cô vân", nhưng cũng khá ấn tượng.

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không".

Hai câu thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ 2 nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ điện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,...nhớ về một cánh chim bay trong "Truyện Kiều": "Chim hôm thoi thót về rừng"; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:

"Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Trở lại bài "Chiều tối", áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc! Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.

Tiếp theo câu cuối 3 - 4 từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".

Một nét vẽ tươi tắn và đáng yêu: cô thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được lặp lại thành “bao túc ma hoàn” ở đầu câu bốn, miêu tả động tác nhịp nhàng của cái cối đá xay ngô thủ công. Tinh thần chăm chỉ của thiếu nữ xóm núi được thể hiện và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên tiếp tạo sự liền mạch và nhạc điệu cho bài thơ. Câu thơ dịch: “Cô em xóm núi xay ngô tối”, với hai chữ “cô em” đã làm mất đi phần phong cách của thơ Hồ Chí Minh; chữ “tối” thêm vào làm lộ rõ ý thơ, làm giảm đi sự tinh tế trong bài thơ chữ Hán.

Các sự vật như nối tiếp theo dòng thời gian: khi ngô đã xay xong, lò than trở nên rực hồng và sáng bừng lên, tạo cảm giác ấm áp. Khi màn đêm buông xuống, lò than đỏ rực làm tâm trí người tù đang bị giải đi cảm thấy thu hút. Cảnh bếp lạnh và tro tàn trái ngược với sự ấm áp của ngọn đèn và bếp lửa trong đêm lạnh. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm gia đình, làm vơi đi nỗi cô đơn và tĩnh mịch. Trong lúc chân tay mang xiềng xích và bị giải đi trong chiều tối, Bác tìm thấy nơi nương náu cho tâm hồn mình. Nỗi cô đơn và lạnh lẽo dường như được xua tan. Một chút mơ ước về mái ấm gia đình hiện lên trong tâm trí nhà thơ trên con đường đày đọa trong đêm tối. Cảm hứng thơ đầy chất nhân bản, hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và sự tươi trẻ hiện đại.

Nhiều bài thơ khác cho thấy trong hành trình lưu đày, người chiến sĩ cách mạng trong "Nhật ký trong tù" thường ít cảm thấy cô đơn, luôn gắn bó với nhịp sống và giữ vững tinh thần lạc quan. Trong cảnh hoàng hôn giá rét, người hướng tới tiếng chuông chùa, tiếng sáo mục đồng với bước chân mạnh mẽ và niềm tin yêu cuộc đời.

"Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay".

Nam Trân dịch

Có những lúc trong hoàn cảnh bị cùm trói, khi "Thừa cơ rét rệp xông vào đánh," Bác vẫn tìm được niềm vui nhỏ để nâng đỡ tâm hồn: "Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần" (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều này chứng tỏ rằng sự sống và tự do là những khát vọng sâu sắc của Bác. Thiên nhiên và con người trong thơ Bác hiện lên qua những hình ảnh đẹp đẽ, bình dị, thể hiện sự gắn bó và yêu mến suốt đời của Người.

"Chiều tối" là một bài thơ đáng yêu, kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và tính trẻ trung, hiện đại. Bài thơ di chuyển từ cảnh vật đến tình cảm, từ bóng tối đến ánh sáng và tương lai. Những nét vẽ tinh tế thể hiện một tâm hồn phong phú và sâu lắng. Bài thơ thể hiện tình yêu bao la đối với thiên nhiên và con người. Dù trong hoàn cảnh đày đọa khó khăn, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy sự sống và cảm xúc.