BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du thể hiện nỗi cô đơn, sự đau khổ của Thúy Kiều. Qua tâm trạng và hình ảnh thiên nhiên, tác giả khắc họa một cách sâu sắc tâm hồn nhạy cảm của Kiều, phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Truyện Kiều là một kiệt tác văn học, đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người yêu văn chương, sáng tác những tác phẩm thơ văn vịnh về tác phẩm này. Trong số đó, có những câu thơ hay vịnh về nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:

“Một mình đối diện với mình

Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua  

Mong manh như một nhành hoa  

Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?  

Chưa đi đến thuở bạc đầu  

Mà sao như đã nhuốm màu hư vô”?

Đó là những câu thơ vịnh về tâm trạng của nàng Kiều khi Nguyễn Du miêu tả cảnh nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần thứ hai, “Gia biến và lưu lạc” của **Truyện Kiều**. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều “thất thân” với hắn, rồi bị hắn bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa và phải làm nghề ô nhục, Kiều uất ức và định tự vẫn. Tú Bà sợ hãi, nhanh trí vờ hứa sẽ gả chồng tử tế cho Kiều, rồi đưa nàng giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ âm mưu mới. Vì thế, đoạn trích này khắc họa cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều, đồng thời qua đó, người đọc thấy được bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo của Nguyễn Du.

Trước hết là sáu câu thơ đầu, tác giả nêu lên hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn, tội nghiệp của Kiều. Ngay câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. “Khóa xuân” tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:

---

“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung 

Bốn bề bát ngát xa trông  

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia 

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya  

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

---

Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa không gian rộng lớn, mênh mông: “bốn bề bát ngát”. Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy “non xa” và “tấm trăng gần”. Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này trong bài thơ “Tràng Giang”, Huy Cận cũng từng có câu thơ:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn “xa trông” như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya  

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

Từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình. Nàng cảm thấy xấu hổ vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, và tủi thẹn vì không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời gian khép kín và sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.

Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiêu không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.

Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ dưới góc bể chân trời ở lầu Ngưng Bích thì nối nhớ gia đình, nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, rất phù hợp với quy luật tâm lý của con người xa quê. Tám câu thơ tiếp theo thể hiện nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đến đây, chúng ta thấy được cách dùng từ rất đắc địa, khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “Tưởng”. Tưởng là nhớ tới mức hình dung ra Kim Trọng đang ở trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ đến đêm chăng thề nguyện, hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ nàng đang phải lạc lõng nơi đất khách, nên nàng tưởng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì bặt vô âm tín:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng  

Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:

“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.

Câu thơ có hai cách hiểu. Thứ nhất, câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì tấm lòng son ấy mãi vẹn nguyên. Thứ hai, câu thơ như một lời tự vấn lương tâm của Kiều, Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình với Kim Trọng đã bị hen ố, đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh nên không biết bao giờ mới gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc ấy. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả nỗi đau đớn, cùng cực, tủi hổ đến xe tâm can. Qua đó cho thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng.

Sau nỗi nhớ người yêu, Kiều tiếp tục nhớ tới cha mẹ – người thân yêu ruột thịt của mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai 

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? 

Sân Lai cách mấy nắng mưa,