Cả "Đồng chí" của Chính Hữu và "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đều ca ngợi vẻ đẹp người lính thời kháng chiến. Qua hình ảnh bình dị, chân thực, hai bài thơ khắc họa sự dũng cảm, tình đồng đội và tinh thần lạc quan của những người chiến sĩ.
Nhà thơ tư duy bằng hình tượng (Biêlinxki). Văn học ở bất kỳ thời đại nào cũng phải sử dụng các hình tượng nhân vật điển hình để phản ánh hiện thực đời sống. Nhà thơ tư duy bằng hình tượng, và nhà văn cũng tư duy bằng hình tượng. Thế giới thêm sắc màu, cuộc sống thêm âm điệu bởi những hình tượng độc đáo. Đại thi hào Nguyễn Du đã chọn "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác phẩm ít tên tuổi, để tái tạo và chuyển sang thơ. Nguyễn Du nhìn thấy trong tác phẩm này hiện thực xã hội Việt Nam với bao bất công, bất hạnh đã dìm đắm cuộc đời những con người lương thiện. Ông còn tìm thấy sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật Thúy Kiều. Điều này cho thấy: "Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng không phản ánh thụ động, máy móc như một tấm gương mà thông qua tư tưởng, tình cảm, cách nhìn, cách đánh giá của từng nhà văn." Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là minh chứng rõ ràng.
Trước hết, hình tượng là phương tiện của văn học để phản ánh hiện thực, là bức tranh sinh động về con người và cuộc sống. “Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả của một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng văn học chứa đựng bức tranh sinh động của hiện thực cuộc sống, cung cấp đề tài để nhà văn tái hiện qua tác phẩm văn học để gửi thông điệp thẩm mỹ đến người đọc. Nhà văn gửi gắm tình cảm, tư tưởng và thái độ của mình qua từng ngôn từ. Lưu Quang Vũ trong bài thơ “Nói với mình và các bạn” đã viết:
“Thơ không phải là chứng minh
Không phải hào quang phản chiếu của tấm gương!”
Phân tích hình tượng văn học là làm nổi bật vẻ đẹp con người, cuộc sống được thể hiện, qua đó phát hiện sự đóng góp riêng của nhà văn trong việc chọn lựa các yếu tố để xây dựng hình tượng.
Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đều trưởng thành trong hàng ngũ quân đội. Thơ Chính Hữu thể hiện cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Phạm Tiến Duật lại có giọng thơ trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch nhưng sâu sắc. Trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, họ đã xây dựng hình tượng người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với vẻ đẹp mộc mạc nhưng dũng cảm. Những người lính ấy có trái tim yêu nước cháy bỏng, cùng những lý tưởng cao đẹp, chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc như lời thơ của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.”
Tình đồng chí, đồng đội keo sơn, sự dũng cảm, kiên cường vượt qua mọi gian khó để sống, chiến đấu và chiến thắng là những phẩm chất đáng quý của người lính. Trong mỗi bài thơ, các tác giả đã sử dụng ngòi bút sắc sảo để thể hiện hình tượng người lính một cách độc đáo.
Trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng chân thực cùng tình cảm đồng chí, đồng đội thắm thiết. Những người lính xuất thân từ những vùng quê nghèo khó:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Họ là những người nông dân từ những vùng quê nghèo đói, quanh năm chỉ biết đến con trâu, mảnh ruộng, nhưng đã giã từ quê hương lên đường chiến đấu. Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, giọng điệu thơ thầm thì tâm tình, làm toát lên vẻ mộc mạc của những người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm là cái gốc để hình thành tình bạn, tình đồng chí:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
...
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Hình ảnh người lính của Chính Hữu còn hiện lên với vẻ đẹp tình cảm, tâm hồn. Từ “đôi người xa lạ”, họ có cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung lý tưởng, để rồi trở thành đôi tri kỉ và đồng chí. Tình cảm đồng chí giúp người lính vượt qua mọi gian khổ, cùng chia sẻ sự thiếu thốn về quân tư trang, chịu đựng những cơn sốt rét. Cái nắm tay “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là sự cảm thông, chia sẻ, là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, sưởi ấm và nâng đỡ những người lính vượt qua gian lao, thử thách của cuộc chiến.
Bài thơ “Đồng chí” còn mang vẻ đẹp lãng mạn cao hơn ở cuối bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Người lính không còn cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, những người bạn tin cậy nhất. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là nét sáng tạo độc đáo, biểu tượng cho tinh thần dũng cảm và khát vọng về một cuộc sống hòa bình, tươi đẹp. Súng và trăng tuy đối lập nhưng đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ nhất.
Tóm lại, bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dân khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Chúng ta không chỉ bắt gặp hình tượng người lính trong thơ của Chính Hữu, mà hình tượng ấy cũng được Phạm Tiến Duật thể hiện trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hình tượng người lính trong bài thơ hiện lên với vẻ đẹp dũng cảm, tinh nghịch, tình đồng đội gắn bó và tâm hồn phơi phới, sôi nổi. Những chiếc xe không kính là nền để nhà thơ ghi lại vẻ đẹp của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mỹ.
Người lính lái xe nói về những chiếc xe không kính bằng giọng thản nhiên, thể hiện cái nhìn lạc quan, dũng cảm:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”
Phẩm chất anh hùng của người lính lái xe ngời sáng qua tư thế ung dung:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng.”
Nhờ những chiếc xe không kính, người lính mới có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng và nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật mở ra một thế giới tâm hồn phong phú, đẹp đẽ của họ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị khi cảm nhận trực tiếp những tác động của thiên nhiên. Giọng thơ phơi phới, sôi nổi và tinh nghịch, người lính lái xe vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy để chiến đấu và chiến thắng.
Tình đồng đội gắn bó trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thể hiện qua những chi tiết:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Những cái bắt tay qua cửa kính vỡ thể hiện tình cảm đồng đội, chia sẻ niềm vui, khó khăn cùng nhau. Tình đồng đội ấy đã giúp họ vượt qua mọi thử thách.
Bài thơ còn thể hiện tình yêu nước nồng nàn và lý tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính lái xe:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Dù xe không có kính, không có mui, không đèn, nhưng họ vẫn vượt qua mọi khó khăn để tiến về phía trước, vì miền Nam thân yêu. Trái tim người lính là nguồn động lực to lớn, giúp họ vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng.