Số phận bi kịch của Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ thể hiện rõ nét nỗi đau và bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua cuộc đời đầy éo le, tác phẩm khắc hoạ sự hy sinh, lòng chung thủy và bi kịch của tình yêu.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Trên con đường dài của văn học, chúng ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dù có "quốc sắc thiên hương", có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người, số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập bởi những định kiến của một xã hội mục nát và những tục lệ "trọng nam khinh nữ". Với ngòi bút đầy cảm xúc, Nguyễn Dữ đã làm cho trái tim người đọc mãi mãi không khỏi tiếc thương khi nghĩ đến số phận bi thảm của Vũ Nương.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy thoái. Nguyễn Dữ, bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường đảo điên nên lui về ở ẩn. Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”, là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”. “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kì Mạn Lục”. Từ một câu chuyện có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn mẫu của người phụ nữ, xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng "hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc mong manh, ngắn ngủi, mong manh như sương khói, ngắn ngủi như đoá phù dung sớm nở, tối tàn” (Đồng Thị Sáo).
Vũ Nương chịu đựng nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi biên ải xa xôi, cả gia đình nhà chồng đè nặng trên vai người thiếu phụ. Nàng thầm lặng sinh con, một mình nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Khi mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và khuyên lơn”. Khi mẹ chồng qua đời, nàng hết lòng lo liệu ma chay như cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống cô đơn, sự lẻ loi và nỗi nhớ cứa tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh, ngày ngày đợi chờ, ngóng trông. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” và “mây che kín núi” gợi lên một khung cảnh đẹp nhưng man mác buồn, giống như tâm trạng nàng lúc bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can. Nỗi nhớ của người thiếu phụ được nhắc đến trong “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo nghiêm ngặt, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng không có quyền lựa chọn khi xã hội phong kiến còn giữ tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng, và đồng tiền đã khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Cuộc hôn nhân này không chứa chan ái tình, cũng không có rung động từ hai trái tim chân thành. Sự chênh lệch giàu - nghèo đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ, tạo cơ hội cho Trương Sinh đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.
Sau ba năm cách biệt, khi Trương Sinh trở về, tưởng rằng hạnh phúc sẽ đến, nhưng vì thói đa nghi và ghen tuông, Trương Sinh mù quáng tin vào lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh Vũ Nương là “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và không nghe lời biện bạch của nàng. Chàng nhẫn tâm mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công, đã dung túng cho người đàn ông coi thường, rẻ rúng, định đoạt và giẫm đạp lên quyền sinh tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ. Nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình, còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống sông, nàng vẫn không hiểu vì sao bị người từng đầu ấp tay gối mắng nhiếc và đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh, nhưng nàng không được quyền phản kháng, bảo vệ mình.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” là lý tưởng sống. Khi niềm vui ấy bị vùi dập bởi nỗi oan thất tiết, nàng quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do chồng bức tử, nhưng Trương Sinh cũng không một chút động lòng hay ân hận. Xã hội phong kiến không bảo vệ, chở che cho thân phận người phụ nữ như Vũ Nương. Chính xã hội cũ đã sinh ra những Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải chịu đựng.
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh đã đẩy gia đình nàng vào cảnh ly tán, vợ chồng xa cách. Niềm tin dành cho nhau kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Trận chiến là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ, và chàng đã thất bại, mù quáng nghi oan và vu khống cho Vũ Nương. Chiến tranh phong kiến là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch trong cuộc đời người phụ nữ.
Ở chốn “làng mây cung nước”, nàng sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, nhưng Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy. Nỗi nhớ gia đình đeo đẳng nàng mãi, trở thành vết sẹo trong tim mà không hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang lộng lẫy nhưng xa vời, mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau ly biệt cho cả gia đình nàng là mãi mãi. Kết thúc không trọn vẹn của Nguyễn Dữ cho thấy hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì chẳng thể hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi chẳng thể vớt lại cho đầy.
Khép lại “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri đã đẩy số kiếp của Vũ Nương vào vực sâu bi kịch. Tác phẩm không kể chuyện đời một cách khô khan mà kết hợp giữa tự sự và trữ tình với yếu tố kỳ ảo. Đây là cách kể chuyện độc đáo, dẫn người đọc vào các tình tiết.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả phản ánh kiếp sống bi thương của phụ nữ trong xã hội cũ, lên án chế độ phong kiến với thói “trọng nam khinh nữ” đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây ra bao đau thương cho những gia đình. Tác phẩm cho thấy tài năng và tâm hồn của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác