Qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, văn học Việt Nam luôn cho ra đời những tác phẩm mang tính thời sự, phản ánh sâu sắc tình hình thời cuộc, sự thay đổi của đời sống xã hội và số phận con người.
Mục lục [Ẩn]
1. Dàn ý Phân tích tác phẩm ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải
Mở bài
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
Thân bài
a. Số phận của nhân vật trung tâm - chị Đào:
- Vóc dáng xấu xí, gương mặt u ám với đôi mắt hẹp, gò má cao đầy vết thương tổn, và hàm răng đen nhờn nhợt, tàn phế, dáng đi lụp xụp.
- Lấy chồng sớm, nhưng số phận không mỉm cười, chồng bỏ đi và để lại nỗi đau, nghiện say, cuộc sống như mơ màng, rồi rời bỏ con gái nhỏ, chị trở thành bóng dáng cô đơn, địa vị thấp thỏm trên cõi đời.
b. Cánh cửa cuộc đời mở ra khi chị Đào lên nông trường Điện Biên:
- Không còn phải chịu đựng sự bất công, chị tìm thấy niềm vui trong lao động, sự hòa mình vào môi trường mới, chia sẻ niềm vui với người bạn Huân, một chàng trai trẻ tuổi hơn chị 25, đẹp trai và tài năng.
- Dần dần, những mảng đen trong tâm hồn chị bắt đầu tan biến, chị tự tin hơn với bản thân mình, dù đã trải qua nhiều gian nan và cô đơn.
- Không khuất phục trước số phận, niềm tin vào tương lai vẫn luôn rực sáng:
+ Chị không bao giờ đầu hàng trước thử thách, luôn tin rằng mình có thể vượt qua mọi khó khăn. Bằng tinh thần mạnh mẽ và sự tự tin, chị đã viết nên những bản thơ, những vần thơ trên trang giấy, thể hiện niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
b. Bước ngoặt trong cuộc đời chị Đào:
- Một người đàn ông lạ xuất hiện, những lá thư của anh khiến chị cảm thấy vui sướng và hạnh phúc. Chị bắt đầu mơ mộng về một tình yêu mới, thức tỉnh những khao khát đã lâu trong lòng.
- Chị ủng hộ tình yêu của Huân và Duệ, cảm thấy họ xứng đôi và sẵn lòng chia sẻ niềm vui và khó khăn với họ.
- Cuộc đời chị đổi khác khi gặp ông thiếu úy, họ cùng nhau xây dựng một gia đình mới, đầy hạnh phúc và ấm áp.
c. Tư tưởng truyện:
- Sự hồi sinh của con người: Chị Đào và anh Huân, cùng với nhiều người khác, đã tìm lại niềm tin và hạnh phúc sau những gian nan. Đất nước Điện Biên cũng hồi sinh mạnh mẽ sau những đau thương của chiến tranh.
- Sự sống hồi sinh của đất nước: Điện Biên đã trở thành biểu tượng của sự hồi sinh và phát triển, nơi con người và đất đai thay đổi, phát triển mạnh mẽ.
Kết bài
Chia sẻ cảm nhận
2. Phân tích tác phẩm Mùa lạc chọn lọc
Mẫu số 1
Trong văn học, có những nhà văn, nhà thơ có khả năng chinh phục tâm hồn độc giả ngay từ những tác phẩm đầu tay của họ. Tuy nhiên, điều này là rất hiếm. Nguyễn Khải không phải là tác giả nhanh chóng khẳng định được mình trên văn đàn. Ông bắt đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1950, nhưng phải mất một thời gian dài ông mới tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Từ những tác phẩm đầu tiên không mấy thành công, dần dần, văn chương của Nguyễn Khải đã khẳng định được chỗ đứng vững chắc và được yêu thích. Khác với nhiều nhà văn đương thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và tài năng trong việc khám phá các vấn đề xã hội mà còn sâu sắc miêu tả sự biến chuyển của cuộc sống và con người. Qua việc mô tả sự biến đổi về số phận và tâm lý của nhân vật Đào trong tác phẩm "Mùa lạc" (1960), Nguyễn Khải đã bộc lộ cảm hứng chủ đạo của mình: cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh. Truyện ngắn “Mùa lạc” phản ánh công cuộc đổi mới xã hội tại vùng đất sau chiến tranh, đặc biệt là cuộc sống của con người trên nông trường Điện Biên. Đào, một trong những nhân vật chính, là người gắn bó với cuộc sống ở nơi đây. Mảnh đất này đã góp phần tạo nên cho cô một sức sống mãnh liệt và một cuộc đời mới. "Đào lên nông trường Điện Biên vào đầu năm, cách Tết âm lịch khoảng nửa tháng." Trước khi đến đây, Đào đã trải qua nhiều nỗi đau buồn. Cô kết hôn từ năm 17 tuổi, nhưng chồng cô lại sa vào cờ bạc, nợ nần và bỏ đi Nam, để lại cô một mình với đứa con trai nhỏ. Khi chồng trở về quê vào đầu năm 1950, Đào chỉ còn biết chăm sóc đứa con nhỏ. Nhưng rồi, đứa trẻ cũng qua đời vì bệnh sởi, để lại cô đơn và tuyệt vọng. Đào phải vật lộn với cuộc sống trong khi nỗi đau chưa nguôi ngoai, phải bôn ba từ nơi này đến nơi khác: "đòn gánh trên vai, đến đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, Cẩm Phả lấy muồng, khi lên Lào Cai buôn gà, vịt..." Đối với Đào, khó khăn về vật chất đã đủ khổ sở (mùa hè chỉ có vài cái áo nâu vá vai, mùa đông chỉ có một chiếc áo bông cũ kỹ...), nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn còn đáng sợ hơn nhiều. Nhìn ngọn đèn dầu, Đào lại tủi thân nhớ về một thời đã có gia đình và đứa con, những lo lắng hàng ngày, và giờ đây chỉ còn mình cô, phải lo từng bữa ăn cho bản thân. Những dấu hiệu của số phận bất hạnh thể hiện rõ trên hình thức của Đào: mái tóc óng mượt ngày xưa giờ đã khô, đỏ, hàm răng phai không còn nhuộm, gò má cao, tàn hương nổi rõ hơn. Chính những khó khăn và bất hạnh đã tạo nên cho Đào một tâm lý "muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống", với tính cách "táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho bản thân". Cuộc sống của Đào trước khi lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết. Tuy nhiên, dưới ngòi bút đầy cảm thông của tác giả, Đào hiện lên với bao nỗi xót thương. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, có lẽ không có gì đặc biệt vì văn học đã đề cập đến nhiều nỗi đau nhân thế. Nếu Đào chỉ là biểu tượng của nỗi khổ đau thì sẽ dễ bị lãng quên giữa hàng ngàn hình tượng khác. Ở Đào, mặc dù đã trải qua nhiều khó khăn, vẫn tồn tại một ngọn lửa nhỏ của hy vọng sống. "Muốn chết" nhưng vẫn tiếc nuối vì "cuộc đời còn dài". Chính vẻ đẹp quả cảm của Đào đã làm cho hình tượng của cô sống mãi. Dù không thể chết thì Đào vẫn quyết sống, dù sống trong sự tủi nhục của một người nhận thức rõ phận mình. Đào lên nông trường với tâm lý của một con chim mỏi cánh, con ngựa chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh để quên đi cuộc đời đã chịu. Tại nông trường, Đào lao động hăng hái vì hiểu rằng chỉ có lao động mới mang lại niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như Huân, Lâm, và công việc nặng nhọc không làm cô nản lòng. Ở Điện Biên, số phận của Đào bắt đầu thay đổi. Ít nhất lúc này, cô không phải lang thang bơ vơ, không có nhà cửa. Cô đã tìm thấy niềm vui trong lao động và sự kết nối với bạn bè xung quanh. Tuy nhiên, do vẫn mang tâm lý mặc cảm, tự ti và chưa hiểu hết mọi người, Đào cảm thấy đau khổ khi bị châm chọc. Mặc cảm vì sự xấu xí và nghèo khó của mình khiến Đào sử dụng ngôn ngữ như một vũ khí tự vệ. Cô hờn dỗi và chua chát nói với Lâm: "Trâu quá sá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị thì còn gì là xuân nữa hỡi các anh." Đào buồn về sự xấu xí và ế ẩm của mình, đôi khi mềm lòng và giãi bày nỗi đau với người khác: "mỗi năm mỗi tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi, nồi nào vung nấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi." Nhưng sau đó, Đào lại tiếc vì sự thành thật của mình và không muốn tủi thân. Cô khao khát được sống bằng tất cả những gì mình có và từ chối sự thương hại. Đào nhìn thẳng vào sự thật với sự kiêu hãnh, không chấp nhận sự thương hại: "Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ..." Giọng nói chanh chua và đanh đá của Đào thực ra chỉ là lớp vỏ che giấu tâm lý mặc cảm và đau buồn của cô, nỗi đau của một con người ý thức được chính mình. Đào hiểu rằng để hòa nhập, cần phải tìm thấy sự đồng cảm trong cuộc sống và lao động, nhưng hòa nhập không có nghĩa là hạ mình mà vẫn giữ được sự tự trọng và kiêu hãnh. Tâm lý của Đào là một mớ hỗn độn của hờn giận, tủi hổ, và tự hào. Qua tình tiết này, Nguyễn Khải đã thể hiện rõ cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống. Chỉ khi nào con người đấu tranh, vươn lên và lạc quan thì tâm hồn mới thay đổi, biến chuyển, thể hiện sự sống hồi sinh. Nếu con người không có khát vọng sống, tâm hồn sẽ chỉ là chuỗi dài những mảnh vụn lạnh lẽo, không có sự chuyển động tâm lý phức tạp. Thời gian đầu lên nông trường Điện Biên, số phận và tâm lý của Đào đã bắt đầu thay đổi. Cô không còn suy nghĩ "còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ" và không còn tâm lý buông trôi, mà đã biết kiêu hãnh và sống vì phần tốt đẹp bên trong mình. Tuy nhiên, phải đến khi Đào thật sự hòa nhập với cuộc sống nông trường thì cuộc đời cô mới hoàn toàn thay đổi. Cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh lúc này mới được hiện rõ. Trước đây, tâm lý của Đào là "chán sống" và "quên đi cuộc đời", nhưng sức sống ẩn sâu trong cô vẫn mạnh mẽ, hiện lên qua hình dáng, cử chỉ và ngôn ngữ của cô. Con người với "hai mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh (...) hàm răng khểnh luôn luôn ưa đùa cợt" và tâm lý "đôi mắt nhỏ vẫn ánh lên thách thức" thì không bao giờ chán sống. Tâm lý mặc cảm, tự ti, và đanh đá chỉ là lớp vỏ ngoài của một tâm hồn đã chịu nhiều thử thách. Niềm khát khao sống trong Đào luôn mãnh liệt và sẽ hồi sinh mạnh mẽ khi có điều kiện. Đào không chịu khép mình trong nỗi đau, mà sống táo bạo và liều lĩnh bởi cô THẬT SỰ MUỐN SỐNG, MUỐN SỐNG. Nỗi khát thèm sống của cô là mạnh mẽ và bùng cháy, không thể âm ỉ hay tắt lịm. Khi nhận ra "trong những con người đó có điều gì thuộc về chính mình", Đào đã tìm thấy được sự đồng cảm trong cuộc sống và lao động. Cô đã có thể đối diện với chính mình, chấp nhận quá khứ và tìm thấy sức mạnh trong những người xung quanh. Niềm khát khao sống của Đào đã được hiện thực hóa qua lao động và sự hòa nhập, khi Đào thấy mình sống không chỉ vì mình mà còn vì những người xung quanh. Cuộc sống của Đào, vì vậy, không còn là một chuỗi dài những nỗi đau và thất bại, mà là một hành trình hồi sinh đầy sức sống và niềm hy vọng. Nguyễn Khải đã khắc họa sự hồi sinh của Đào không chỉ bằng cách mô tả hình ảnh bên ngoài mà còn qua việc thể hiện sự thay đổi nội tâm của cô. Sự chuyển mình của Đào là biểu hiện rõ nét của cảm hứng hồi sinh cuộc sống, phản ánh sự đổi mới và khát vọng sống mãnh liệt trong một thời kỳ đầy biến động. Sự thay đổi này không chỉ xảy ra trong nhân vật Đào mà còn là một phần của quá trình hồi sinh chung của xã hội. Như vậy, Nguyễn Khải đã thành công trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo của mình qua hình tượng nhân vật Đào và hành trình hồi sinh của cuộc sống trong "Mùa lạc".
Mẫu số 2
Trong văn học, có những nhà văn, nhà thơ chiếm lĩnh được tâm hồn độc giả ngay từ sáng tác đầu tiên. Nhưng điều đó rất hiếm. Nguyễn Khải không phải là tác giả nhanh chóng khẳng định được mình trên văn đàn. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950 song chưa thành công; càng về sau, văn phẩm của ông càng giữ được chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc. Khác với các nhà văn đương thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và năng lực khám phá với các vấn đề xã hội mà ông còn đi sâu miêu tả sự biến chuyển của cuộc sống, của con người. Qua việc đặc tả sự biến đổi về số phận và tâm lí nhân vật Đào (Mùa lạc – 1960), Nguyền Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng chủ đạo thiên truyện: cảm hứng về sự hồi sinh cuộc sống sau chiến tranh..
Truyện ngắn “Mùa lạc” phản ánh công cuộc đổi mới xã hội ở vùng đất sau chiến tranh, phản ánh cảnh sống con người trên nông trường Điện Biên. Đào cùng là một trong những người gắn bó với cuộc sống nơi đây. Chính mảnh đất này đã góp phần xây dựng cho cô một sức sống mãnh liệt, một cuộc đời mới.
“Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết âm lịch chừng nửa tháng”. Trước khi lên nông trường, Đào “gặp nhiều điều đau buồn”. Cô “lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới về quê. Ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Với người phụ nữ trẻ, mất chồng là nỗi bất hạnh cùng cực, nhưng “mấy tháng sau đứa con lên sởi bỏ đi để chị lại một mình” thì không còn gì có thể đau khổ hơn thế. Đào phải bôn ba kiếm sống với nỗi đau chưa tắt, với cô quạnh bao trùm: “đòn gánh trên vai, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt.,.”, nơi nào cũng có dấu chân cô độc của chị. Với Đào, khó khăn về vật chất đã khổ (Mùa hè vài cái áo nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngấn bạc…) nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn còn đáng sợ hơn nhiều. Nhìn “ngọn đèn dầu” chị tủi thân “sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm”. Có thể nói Đào có một số phận bất hạnh. Những bi thương, khốn khổ hiện hình trên hình thức của chị: “Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều”. Chính số phận bất hạnh, bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời đã tạo nên cho chị một tâm lý “Muốn chết, nhưng đời còn dài nên phải sống”, một tính cách “táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho thân mình”.
Cuộc sống của Đào khi chưa lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết. Nhưng dưới ngòi bút đầy cảm thông, Đào hiện ra với bao nhiêu xót thương. Tuy nhiên, nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói bởi văn học xưa nay đã đề cập đến nhiều nỗi đau nhân thế. Giả sử Đào hiện diện cho con người chỉ biết đến đau khổ thì sẽ chìm lấp giữa trăm nghìn hình tượng khác. Ở Đào, tuy trải qua nhiều tháng ngày cơ cực, nhưng trong cô vẫn le lói mong muốn được sống. “Muốn chết” nhưng lại tiếc “cuộc đời còn dài”. Chính vẻ đẹp quả cảm kiến nghị đã làm hình tượng nhân vật Đào sống mãi. Đã không thể chết thì quyết sống cho dù sống trong nỗi tủi nhục của con người biết phận mình trăm đường thua thiệt.
Đào lên nông trường “với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã chịu”. Ở nông trường, Đào hăng hái lao động bởi cô hiểu chỉ có lao động mới tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như Huân, Lâm… “bàn tay có ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và bằng cử chỉ rất nhanh, chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục”. Lên Điện Biên, số phận của Đào dần dần thay đổi. Ít nhất ở thời gian này cô không phải bươn chải khắp nơi, không nhà không cửa. Cô đã tìm lại được chút niềm vui trong lao động, với những bạn bè xung quanh. Nhưng do Đào vẫn mang tâm lý mặc cảm, tự ti và chưa hiểu hết mọi người nên cô thấy đau khổ khi bị mọi người châm chọc. Đào mặc cảm vì cái xấu, cái nghèo… của mình, song anh chàng Lâm vô tâm lại khía đúng vào nỗi khổ ấy. Đào không có nhan sắc – vũ khí người phụ nữ nên cô dùng ngôn ngữ để tự vệ. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, chua cay: “Trâu quá sá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị thì còn gì là xuân nữa hỡi các anh”. Đào là một người phụ nữ, cô cũng buồn về sự xấu xí, ế ẩm, lỡ làng nên đôi lúc cô mềm lòng, giãi bày sự đau khổ với người đời “mỗi năm mỗi tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi, nồi nào vung nấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi”. Nhưng sau đó, Đào lại thấy tiếc cho sự thành thật của mình “chẳng việc gì phải tủi, phải nhún mình”. Cô khát vọng được sống bằng tất cả điều gì mình có, người nào chẳng có phần tốt đẹp. Cho nên Đào không chấp nhận sự thương hại. Cô dám nhìn thẳng vào sự thật, kiêu hãnh về sự thật ấy: “Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ…”. Giọng nói chanh chua, chua chát, đanh đá của Đào thật ra chẳng làm ác với ai. Đó chỉ là vũ khí tự vệ để dấu đi tâm lý mặc cảm, đau buồn trong lòng – nỗi đau của con người ý thức được mình. Đào hiểu muốn hòa nhập là phải tìm thấy trong cuộc sống, trong lao động nét chung, những tấm lòng bao dung. Nhưng hòa nhập không phải là hạ mình, mà vẫn ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Tâm lý Đào thật phức tạp, lúc hờn giận, lúc tủi hổ, khi lại ngẩng đầu hãnh diện. Chính ở tình tiết này, Nguyễn Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống. Chỉ khi nào tâm hồn con người biết đấu tranh, biết vươn lên, lạc quan, biết khát thèm sự sống thì tình cảm mới biến chuyển, thay đổi, thể hiện cho sự giằng xé đời hồi sinh. Nếu con người không muốn đến với sự sống thì tâm hồn mãi chỉ là chuỗi dài le lói, băng lạnh, chẳng nảy sinh ra nhiều diễn biến tâm lý, tình cảm phức tạp.
Thời gian đầu lên nông trường Điện Biên, số phận và tâm lý Đào đã bước đầu thay đổi. Cô đã dần mất đi suy nghĩ “còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ”. Chị không còn tâm lí buông trôi chơ số kiếp, chị biết kiêu hãnh, biết sống vì phần tốt đẹp bên trong của mình. Nhưng phải đến thời gian sau – thời gian Đào thật sự hòa nhập với cuộc sống nông trường thì cuộc đời chị mới lật sang trang mới. Đến đây, cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh mới được nhận thấy một cách rõ ràng, đầy đủ.
Mẫu số 3
Trong lĩnh vực văn học, không phải nhà văn hay nhà thơ nào cũng có thể chinh phục tâm hồn độc giả ngay từ tác phẩm đầu tiên của mình. Sự thành công ấy hiếm hoi, và Nguyễn Khải là một ví dụ điển hình về sự kiên nhẫn và sự cống hiến không ngừng để đạt được thành công. Dù ông bắt đầu sự nghiệp viết lách từ năm 1950, và không gặt hái thành công ngay lập tức, nhưng qua thời gian, các tác phẩm của ông dần chiếm được vị trí vững chắc trong lòng người đọc. Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và khả năng phân tích các vấn đề xã hội mà còn thấu hiểu sâu sắc sự chuyển mình của cuộc sống và con người. Đặc biệt, qua việc khắc họa sự thay đổi về số phận và tâm lý nhân vật Đào trong tác phẩm "Mùa lạc" (1960), ông đã thể hiện rõ rệt cảm hứng chủ đạo của mình: sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh. Tác phẩm ngắn “Mùa lạc” không chỉ phản ánh quá trình đổi mới xã hội tại vùng đất sau chiến tranh mà còn mô tả chân thực đời sống của con người ở nông trường Điện Biên. Nhân vật Đào, một người gắn bó sâu sắc với nơi đây, chính là minh chứng cho sự chuyển mình của cả một thế hệ. Mảnh đất này đã nuôi dưỡng và tái sinh cho cô một sức sống mới, một cuộc đời khác biệt. "Đào lên nông trường Điện Biên vào đầu năm, chỉ cách Tết âm lịch khoảng nửa tháng." Trước khi đến đây, Đào đã trải qua nhiều nỗi đau. Cô lấy chồng từ khi mới 17 tuổi, nhưng chồng cô ham mê cờ bạc và nợ nần, bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới trở về. Họ chỉ có một đứa con trai, và khi cậu bé lên hai thì chồng cô qua đời. Sự mất mát này là cú sốc lớn đối với người phụ nữ trẻ tuổi, nhưng nỗi đau không dừng lại ở đó. Sau cái chết của chồng và đứa con, Đào lâm vào tình cảnh cô đơn cùng cực, phải bươn chải kiếm sống trong khi đau khổ chưa nguôi ngoai. "Đòn gánh trên vai, đến đâu là nhà, ngã đâu là giường," cuộc sống của cô là những ngày tháng mỏi mệt, từ Hòn Gai đến Cẩm Phả, rồi ngược lên Lào Cai buôn bán. Những khó khăn vật chất là nỗi đau không thể tránh khỏi, nhưng sự thiếu thốn về tinh thần còn tồi tệ hơn nhiều. Đào thường nhìn "ngọn đèn dầu" và cảm thấy tủi thân, nhớ về một gia đình, một đứa con và những ngày tháng xưa cũ. Sự nghèo đói, sự xấu xí, và sự cô đơn của Đào hiện rõ qua hình dáng và tâm trạng của cô. Dù vậy, Đào vẫn mang trong mình một tâm lý đầy mâu thuẫn: "Muốn chết, nhưng đời còn dài nên phải sống", biểu hiện của một người vừa cảm thấy cuộc đời quá khắc nghiệt, vừa không chịu khuất phục. Khi Đào lên nông trường Điện Biên, cô mang theo một tâm trạng như con chim mỏi cánh, con ngựa chồn chân, tìm kiếm một nơi hẻo lánh để quên đi nỗi đau quá khứ. Dù khởi đầu không dễ dàng, Đào nhanh chóng hòa nhập vào công việc. Cô lao động hăng say, thi đua với những người khác như Huân, Lâm… Với đôi tay lao động miệt mài, Đào dần tìm thấy chút niềm vui và sự hạnh phúc trong công việc, mặc dù cô vẫn còn tâm lý tự ti và mặc cảm. Sự đối mặt với những lời châm chọc từ người khác càng làm nổi bật tâm trạng xung đột bên trong Đào. Cô không chấp nhận sự thương hại mà dùng ngôn ngữ để bảo vệ chính mình, kiên quyết giữ gìn sự tự tôn. Mặc dù cảm thấy tủi hổ, Đào vẫn khát khao sống và tìm kiếm niềm vui trong công việc và cuộc sống. Sự hồi sinh của Đào không chỉ thể hiện qua sự thay đổi trong cuộc sống vật chất mà còn là sự hồi sinh của tinh thần và tâm hồn. Khi nhận được thư tỏ tình từ thiếu úy Dịu, Đào trải qua một sự chuyển biến mạnh mẽ. Ban đầu, cô nghi ngờ và tức giận, nhưng sau đó, cảm giác êm đềm từ bức thư như làn nước tưới tắm tâm hồn khô cằn của cô. Sự hồi sinh trong Đào không chỉ là sự trở lại của niềm vui mà còn là sự tự tin và khát vọng sống mãnh liệt. Với những tình tiết này, Nguyễn Khải không chỉ khắc họa sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh qua nhân vật Đào mà còn thể hiện một cảm hứng mới về sức sống bền bỉ. Sự hồi sinh của Đào và những nhân vật khác trong tác phẩm minh chứng cho một chân lý: dù cuộc sống có khắc nghiệt đến đâu, nếu con người có khát vọng và sức mạnh nội tại, họ sẽ luôn tìm thấy ánh sáng và hạnh phúc.
Mẫu số 4
Trong thế giới văn học, có những tác giả ngay từ những tác phẩm đầu tay đã chinh phục được trái tim của độc giả. Tuy nhiên, điều này thật sự rất hiếm gặp. Nguyễn Khải, một nhà văn đáng kính của nền văn học Việt Nam, không phải là người đạt được thành công nhanh chóng trên văn đàn. Dù bắt đầu viết từ năm 1950, ông đã phải trải qua nhiều năm tháng miệt mài trước khi khẳng định được vị trí của mình. Qua thời gian, những tác phẩm của ông dần khẳng định được sức ảnh hưởng và chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc. Khác biệt so với nhiều tác giả cùng thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén trong việc khám phá các vấn đề xã hội mà còn sâu sắc miêu tả sự chuyển mình của cuộc sống và con người. Qua việc khắc họa sự biến đổi về số phận và tâm lý của nhân vật Đào trong tác phẩm "Mùa lạc" (1960), Nguyễn Khải bộc lộ rõ ràng cảm hứng chủ đạo của mình: cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh. Truyện ngắn "Mùa lạc" phản ánh chân thực quá trình đổi mới xã hội ở một vùng đất sau chiến tranh, cũng như tình cảnh của con người tại nông trường Điện Biên. Nhân vật Đào, một người gắn bó sâu sắc với cuộc sống ở đây, chính là sản phẩm của mảnh đất này. Mảnh đất Điện Biên đã góp phần tạo nên một sức sống mới và một cuộc đời khác cho cô. “Đào lên nông trường Điện Biên vào đầu năm, chỉ cách Tết âm lịch khoảng nửa tháng.” Trước khi đặt chân lên nông trường, Đào đã trải qua nhiều đau khổ. Cô kết hôn từ năm 17 tuổi, nhưng chồng cô thường xuyên cờ bạc và nợ nần, bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới trở về quê. Họ sống cùng nhau được một đứa con trai lên hai tuổi, rồi chồng Đào qua đời. Đối với một người phụ nữ trẻ tuổi như Đào, mất chồng đã là nỗi bất hạnh tột cùng, nhưng khi đứa con cũng mắc bệnh sởi và qua đời, nỗi đau đó không gì có thể so sánh nổi. Đào phải vật lộn kiếm sống trong khi nỗi đau vẫn chưa nguôi, sống lang thang với cảm giác cô đơn bao trùm: “Đòn gánh trên vai, đến đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, Cẩm Phả kiếm muồng, khi lên Lào Cai buôn gà, vịt...”. Mỗi nơi cô đi qua đều in dấu chân của sự cô đơn. Đối với Đào, sự thiếu thốn vật chất là nỗi khổ (Mùa hè chỉ có vài cái áo nâu vá vai, mùa đông chỉ một chiếc áo bông cũ) nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn lại đáng sợ hơn nhiều. Nhìn vào "ngọn đèn dầu", Đào cảm thấy tủi thân và nhớ lại quá khứ, nơi cô từng có một gia đình, một đứa con, và cuộc sống hằng ngày. Còn hiện tại, bốn bể là nhà, cô chỉ lo làm sao có đủ cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Đào đã trải qua một số phận đầy bất hạnh. Những nỗi đau, khổ cực hiện rõ trên hình thức của cô: “Mái tóc óng mượt ngày xưa giờ đã khô và đỏ đi, hàm răng phai không buồn nhuộm, gò má càng cao, tàn hương nổi nhiều.” Chính số phận bất hạnh và cảm giác lạc lõng giữa cuộc đời đã hình thành cho cô tâm lý “Muốn chết, nhưng đời còn dài nên phải sống,” và một tính cách “táo bạo, liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho thân mình.” Cuộc sống của Đào trước khi lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết, nhưng dưới ngòi bút đầy cảm thông của ông, Đào hiện lên với bao xót thương. Nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm có thể không có gì đặc biệt vì văn học từ trước đến nay đã đề cập đến nhiều nỗi đau nhân thế. Tuy nhiên, Đào không chỉ là hình tượng của những người chỉ biết đến đau khổ mà còn là biểu hiện của sức sống tiềm tàng. Dù đã trải qua nhiều tháng ngày cơ cực, Đào vẫn luôn âm thầm khao khát sống. “Muốn chết” nhưng lại tiếc “cuộc đời còn dài”. Chính vẻ đẹp quả cảm đã làm cho hình tượng Đào trở nên đáng nhớ. Dù không thể chết, Đào quyết định sống, dù cuộc sống của cô đầy những nỗi tủi nhục và sự nhận thức về phận mình luôn thua thiệt. Khi lên nông trường, Đào mang tâm lý của một con chim mỏi cánh, một con ngựa mệt mỏi, tìm kiếm một nơi xa lạ để quên đi những đau khổ đã trải qua. Ở nông trường, cô hăng hái lao động vì hiểu rằng chỉ có lao động mới mang lại niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như Huân, Lâm, và lao động chăm chỉ để đạt hiệu quả cao. Cuộc sống ở Điện Biên đã dần thay đổi số phận của Đào. Ít nhất vào thời điểm này, cô không còn phải lang thang vô gia cư. Cô đã tìm thấy niềm vui trong công việc và sự đồng hành của bạn bè. Tuy nhiên, vì mặc cảm và tự ti, Đào vẫn cảm thấy đau khổ khi bị châm chọc. Cô mặc cảm vì sự xấu xí, nghèo khó của mình, và dùng ngôn ngữ để tự vệ. Khi bị Lâm châm chọc, Đào đáp lại bằng những lời hờn dỗi và chua cay. Cô không chấp nhận sự thương hại và kiêu hãnh về sự thật của mình: “Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng.” Giọng nói chua chát của Đào không nhằm làm hại ai mà chỉ là cách tự vệ để che giấu tâm lý mặc cảm và đau buồn. Đào hiểu rằng muốn hòa nhập, cô phải tìm thấy nét chung trong cuộc sống, trong lao động, và cần sự bao dung của mọi người. Nhưng hòa nhập không có nghĩa là hạ thấp mình mà vẫn phải giữ vững sự tự trọng. Tâm lý của Đào thật phức tạp: lúc hờn giận, lúc tủi hổ, lúc lại ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Nguyễn Khải đã khéo léo thể hiện cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống qua tình tiết này. Chỉ khi nào tâm hồn con người biết đấu tranh, biết vươn lên và khát khao sống, thì tình cảm mới biến chuyển, thay đổi, thể hiện cho sự giằng xé và hồi sinh của đời sống. Nếu con người không khao khát sự sống, tâm hồn sẽ mãi chỉ là chuỗi dài mờ nhạt, không có diễn biến phức tạp về tâm lý và tình cảm. Khi mới đến nông trường Điện Biên, Đào đã dần thay đổi. Cô không còn nghĩ về tương lai một cách buông trôi nữa, mà đã biết kiêu hãnh và sống vì những điều tốt đẹp bên trong mình. Tuy nhiên, phải đến khi thực sự hòa nhập với cuộc sống nông trường, Đào mới trải qua sự lột xác hoàn toàn. Cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh trở nên rõ ràng và đầy đủ hơn. Trước đây, tâm lý của Đào là “chán sống”, “quên đi cuộc đời”, nhưng sức sống tiềm tàng trong cô vẫn âm ỉ, sẵn sàng bùng cháy khi gặp điều kiện thuận lợi. Đào không chịu khép mình trong nỗi đau thầm lặng, mà sống táo bạo và liều lĩnh vì cô KHAO KHÁT SỐNG, THÈM SỐNG. Sự khát thèm đó luôn mãnh liệt và bùng cháy chứ không thể âm ỉ. Từ tâm lý ghen tị, Đào đã tìm thấy niềm vui trong công việc và sống tích cực hơn. Khi làm việc cùng Huân, nhìn thấy đôi cánh tay cuồn cuộn của anh, Đào cảm thấy khao khát một gia đình. Nguyễn Khải đã khắc họa sự hồi sinh của cuộc sống không chỉ qua cuộc sống vật chất mà còn qua sự hồi sinh của tâm hồn và tình cảm. Sự hồi sinh là sự sống lại của ước mơ về một cuộc sống ấm áp và hạnh phúc. Đào đến gần Huân không phải vì yêu anh mà vì sức mạnh và niềm hy vọng mới mà anh mang lại. Sự hồi sinh ở đây chính là tâm lý bền bỉ trong Đào, không chịu tắt theo năm tháng. Sự hồi sinh chủ yếu phải do bản thân con người tự tạo ra, nhưng sự hồi sinh còn có thể đến từ sự hỗ trợ của xã hội. Chẳng hạn, Đào được nâng đỡ và giúp đỡ bởi tập thể nông trường. Chính điều này khiến Đào có thể vươn lên trong cuộc sống, gạt bỏ nỗi đau và tìm thấy niềm vui trong công việc. Nông trường Điện Biên trở thành một biểu tượng của sự hồi sinh và là nơi tạo điều kiện cho con người phát triển. Trong không khí phấn khởi của mùa lạc, Đào không còn đơn độc trong nỗi đau mà tìm thấy niềm vui và động lực mới. Như vậy, tác phẩm "Mùa lạc" không chỉ phản ánh sự đổi mới xã hội sau chiến tranh mà còn thể hiện rõ cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống và con người. Nguyễn Khải đã khéo léo miêu tả sự đấu tranh của Đào và sự hồi sinh của tâm hồn qua việc thể hiện sự khát khao sống mãnh liệt và niềm vui trong công việc. Đào là hình mẫu của những người đã vượt qua khó khăn và tìm thấy niềm vui trong cuộc sống, chứng minh rằng sự hồi sinh có thể đến từ chính bản thân con người và sự hỗ trợ của xã hội.
Mẫu số 5
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc đứng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong không khí sôi nổi lao động và kiến thiết đất nước, nhiều thanh niên đã tình nguyện rời xa quê hương đi đến những vùng đất mới bước vào công cuộc khẩn hoang canh tác đầy vất vả nhưng vinh quang, biến những mảnh đất khô cằn, bị bom đạn tàn phá suốt mấy chục năm thành những khu nông trường màu mỡ góp phần dựng xây kinh tế nước nhà. Hòa chung với không khí xung phong ấy, giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ cũng nảy ra những quan niệm mới trong sáng tác, phải tích cực xung phong đi đến những vùng đất mới của đất nước để khai thác được hết những vẻ đẹp của quê hương, của con người trong thời khắc mới của Tổ quốc. Chính vì thế Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân và Nguyễn Khải đã cùng nhau mạnh mẽ tiến bước về nông trường Điện Biên. Sau chuyến đi thực tế ấy mỗi tác giả đều có cho riêng mình những trải nghiệm đáng giá và những tác phẩm sâu sắc. Trong khi Nguyễn Huy Tưởng cho ra đời nhiều tiểu thuyết, Nguyễn Tuân có riêng mình tập tùy bút Sông Đà, thì Nguyễn Khải cũng có truyện ngắn Mùa lạc. Dù rằng cái thời khắc mang tính thời sự của đất nước đã qua được mấy chục năm, thế nhưng những nội dung nhân văn trong tác phẩm này của Nguyễn Khải vẫn tồn tại và sống mãi trong lòng người đọc.
Mùa lạc không phải là một truyện ngắn phức tạp, mà chủ yếu tập trung vào đời sống của con người sau ngày kháng chiến chống Pháp, những đau thương tạm qua đi, nhân dân Việt Nam bước vào một khởi đầu mới, nhiều khó khăn, nhưng cũng nhiều hy vọng, bỏ lại sau lưng nhiều đau thương, mất mát. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Đào, một người đàn bà có số phận bất hạnh, chông chênh cũng như nhiều kiếp đàn bà của thế kỷ trước. Một trong những cái bất hạnh lớn nhất của đời chị ấy là cái ngoại hình kém duyên "hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi", khuôn mặt không ưa nhìn, dáng vóc của chị cũng không lấy làm dịu dàng mấy với một cái dáng "sồ sề", chân ngắn. Thế nhưng chị Đào cũng đã từng có được chồng, chị đã nên vợ nên chồng với người ta từ thuở 17, bẻ gãy sừng trâu, cái thuở còn ngô nghê hồn nhiên. Cứ nói rằng hồng nhan bạc mệnh, nhưng ít nhất như vậy chị cũng được vui vì cái nhan sắc của mình, còn đằng này chị đã buồn vì bản thân kém xinh, lại khốn khổ với một người chồng bỏ đi biền biệt, nghiện rượu chè, cờ bạc, khiến đời chồng con của chị lận đận. Rồi cái người chồng ấy cũng ra đi sớm, để lại cho chị đứa con trai hai tuổi thế nhưng nó cũng bỏ chị mà đi nốt vì bệnh sài, chị trở thành người đàn bà cô độc, không nhà không cửa, bơ vơ trên đời với nhiều nỗi đau khổ. Chị sống với kiếp lênh đênh "đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường" khốn khổ, thiếu thốn với "Mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc", đời người đàn bà vốn ưng được êm đềm, lặng gió thế mà với chị "bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào".Có biết bao nỗi cay đắng, tủi nhục đã trùm lên cuộc đời của người đàn bà này, để rồi nó hiện hẳn ra cái ngoại hình của chị "Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều". Rồi những lúc đau ốm chị lại nương nhờ người này người kia một chút để vượt qua, chị Đào đôi lúc đã nghĩ muốn về quê, nhưng quê chị làm gì có ai nữa, rồi muốn chết cho đời hết nặng nhọc, khốn khổ ấy thế nhưng "đời còn dài nên phải sống". Có thể nhận ra rằng chị Đào là một người phụ nữ thật kiên cường, mạnh mẽ và có sức sống tiềm tàng mãnh liệt đến nhường nào, chị đã trải qua nhiều bất hạnh thế nhưng chị chưa từng buông xuôi cuộc đời mình, vẫn miệt mài chăm chỉ lao động để nuôi sống bản thân. Nhưng đồng thời những bất hạnh, mất mát và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần đã khiến chị có cái vẻ "táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình". Phải hờn trách chứ, bởi đời chị nó khổ quá, mà chị thì có tội tình chi.
Những tưởng cuộc đời chị Đào sẽ mãi phải chịu cảnh lênh đênh, bốn bể là nhà thì "tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua" đã đưa cuộc đời chị đi vào một bước ngoặt khác, tươi sáng và nhiều hứa hẹn. Ở nông trường Điện Biên, chị Đào không còn phải chịu cảnh lênh đênh nay đây mai đó, bốn bể là nhà, chị được hòa vào cái niềm vui lao động, phấn đấu và thi đua, tâm hồn chị đã bứt đi được cái cảm giác lạc lõng và cô độc. Bởi lẽ lúc đầu dù chị chưa quen thân với tất cả mọi người, nhưng chí ít chị cũng thân thiết được với Huân một anh chàng kém chị 25 tuổi, đẹp trai nhất nông trường. Sự khỏe mạnh, vui tính, khéo léo, đa tài của Huân đã thắp lên cho cuộc đời chị nhiều niềm vui trong lao động, bởi lẽ ít ra chị cũng có một người cùng lao động, cùng nói chuyện và cũng là để thi đua. Tuy nhiên, chị Đào vẫn chưa mở khóa được tất cả những mặc cảm tự ti trong lòng mình, cái nỗi buồn lòng của một người đàn bà xấu, sắp qua tuổi xuân thì, mà lại cứ độc lai độc vãng, không chồng con, không được ai ngó ngàng yêu thương. Thành thử ra khi phải nghe cái sự gán ghép kỳ quặc giữa chị và Huân, của anh chàng tên Lâm nó đã vô tình khía mạnh vào nỗi mặc cảm, buồn lòng mà chị cất giữ bấy lâu. Thế nhưng Đào không phải là một người phụ nữ dễ xấu hổ, hay khuất phục trước những lời trêu chọc tinh quái của người khác, chị mạnh mẽ bác lại và dường rất bình thản trước cuộc đời lắm chông gai của mình. Lúc đầu chị thành thật giãi bày "Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bố cháu dưới xuôi rồi, mai nay bố cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy". Nhưng sau nhiều lần đối mặt với cái trò đùa độc ác thích xoáy vào nỗi bất hạnh của người khác chị đã không buồn nhún nhường, thành thật mà làm gì nữa, chị đã 28 tuổi, chứ chẳng phải bé bỏng để người ta bắt nạt mãi thế chị tự tin mà thành thơ, thành vần rằng "Huê thơm bán một đồng mười. Huệ tàn nhị giữa giá đôi lạng vàng". Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ". Đến đây người ta bắt đầu nhận ra, chị Đào không hẳn đã tắt hẳn những hy vọng về một cuộc đời được yêu thương, chẳng phải chị vẫn rất có ý thức về cái giá trị của mình hay sao. Chị vẫn có lòng tự tôn của một người đàn bà dù không đẹp nhưng tâm hồn đẹp, hăng say lao động, chăm chỉ cần cù hơn bất cứ ai. Và những lúc nhìn thấy cái vẻ trẻ trung khỏe khoắn của Huân, một chàng trai như ánh dương giữa cuộc đời, thì cái niềm khao khát hy vọng về một cuộc sống hạnh phúc, được yêu thương, đùm bọc nó lại âm ỉ cháy trong trái tim nhiều thương tổn. Chị "muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác". Đó là một trong những biểu hiện rõ nét nhất về sự hồi sinh sự sống trong tâm hồn người đàn bà này, bởi lẽ rằng nếu người ta đã không tha thiết gì thì chắc người ta đã chẳng phải hờn giận, ghen tỵ, hay có những lúc đanh đá, đấu tranh cho bản thân mình, mà chỉ việc lầm lũi cho qua ngày đoạn tháng như cô Mị trong Vợ chồng A Phủ. Và cũng có những lúc "chị lại bừng bừng nghĩ tới một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì đó chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp ló ở phía trước". Những hy vọng ấp ủ ấy chắc chắn sẽ nuôi dưỡng tâm hồn chị Đào và sẽ dẫn chị đến những hạnh phúc chị xứng có được.
Và thật may rằng cuộc đời vẫn không bạc đãi chị Đào, đã cho chị những tia sáng, những niềm hy vọng mới mẻ, khi có một người đàn ông mới gặp vài lần viết thư ngỏ lời với chị bằng những lời lẽ mà chị cho là "táo bạo", là "coi thường". Nhưng thực tế đó là những điều chị dối lòng, bởi chị bất ngờ và "bàng hoàng" trước cái cơ hội được yêu thương săn sóc tự dưng tràn đến cuộc đời chị trong hoàn cảnh này, giữa cái cuộc đời hạn hán vì thiếu thốn tình cảm và mất mát quá nhiều. Và sự thực là chỉ một lá thư ngỏ lời ấy đã khiến chị vui một "nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra". Chị xúc động và hạnh phúc vì cái chuyện vui đột ngột đến trong đời, và tâm hồn chị đã bắt đầu "thức tỉnh những nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm trời nay". Thậm chí chưa có gì xác định nhưng chị đã bắt đầu tưởng đến cảnh chung đụng với con riêng của chồng, những tính toán về cuộc sống sau kết hôn,... Đó là những diễn tiến tâm lý thật bình thường của con người, hy vọng và vui sướng dễ dẫn người ta đi xa trong tưởng tượng, và tâm hồn chị Đào đã thực sự sống lại, tươi sáng như cái cách mà chị nghĩ về tương lai.
Đôi lúc người ta hỏi chị Đào có yêu anh Huân không, thiết nghĩ rằng chị Đào mơ ước được người như anh Huân, chị thích anh, nhưng chị cũng ý thức được rõ khoảng cách giữa hai người, đồng thời chị cũng hài lòng với những gì mình đang có được. Thế nên chị chỉ dừng lại ở cái việc ngưỡng mộ và thân thiết với Huân, xem Huân là ánh mặt trời rọi sáng những tối tăm trong lòng chị, cũng là người thấu hiểu chị. Chính vậy nên chị có một cái nhìn rất thiện cảm với mối tình của Huân và Duệ, chị thấy họ thật xứng đôi phải lứa, và chị ra sức vun vén, đắp đầy cho cái tình cảm ngỡ suôn sẻ mà nhiều chông gai. Bởi lẽ người trẻ, ít trải đời họ thường có những cái suy nghĩ vẩn vơ, rụt rè và sợ hãi trước hạnh phúc, trước tương lai, đặc biệt ở đây là cô Duệ, một cô gái trẻ tuổi, mong manh. Còn chị chị cảm thấy vừa lòng với ông thiếu úy, và cuộc đời họ đã gắn với nhau khi vào vụ gieo ngô, chị đã có một gia đình mới, một bàn tay đàn ông che chở, yêu thương, chị lấy đó là hạnh phúc và hợp tình. Và hạnh phúc của chị cũng nhận được những lời vun đắp từ những anh em trên công trường, những con người từ nhiều miền của Tổ quốc mà mới chỉ nửa năm trước chị còn xa lạ.
Tư tưởng chính mà Nguyễn Khải muốn truyền đạt thông qua truyện ngắn Mùa lạc ấy chính là sự hồi sinh của con người, của đất nước. Sau giải phóng miền Bắc, có nhiều cuộc đời đã theo đổi theo những chiều hướng tích cực, sự vận động diễn ra một cách âm thầm, âm ỉ trong trái tim mỗi người. Họ sống với nhiều hy vọng về một tương lai tươi sáng, những khát khao hạnh phúc sau những năm tháng đau thương của đất nước và của cả cuộc đời mình. Từ một người phụ nữ kém sắc, góa chồng, sắp hết tuổi xuân, đến anh Huân với "những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim", đến cả anh thiếu úy Dịu góa vợ, có đứa con riêng, đã lớn tuổi nhưng vẫn dám mạnh mẽ viết thư ngỏ lời "táo bạo" cho chị Đào nhằm vun vén một hạnh phúc mới. Rồi rộng hơn nữa người ta còn thấy sự sống hồi sinh trên mảnh đất Điện Biên mà chỉ mấy năm trước còn là bãi chiến trường hoang lạnh đầy mảnh vỏ bom đạn, dây thép gai, hầm hào,... thì nay thay vào đó là "khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp", cùng với những cánh đồng lạc, ngô tươi tốt, những con người lao động miệt mài, hăng say. Người ta đã nhanh chóng đặt lại đau thương, mất mát từ chiến tranh vào quá khứ để dựng lại cuộc sống mới khi mà "Trong những buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả lựu đạn cối tiện đầu làm bình hoa, một ống khối thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng mượt",... Tất cả những biểu hiện rõ rệt ấy đã cho thấy sự hồi sinh mạnh mẽ, thay da đổi thịt của cả đất nước và con người sau mấy chục năm trời nghiệt ngã và thực sự "cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi".
Truyện ngắn Mùa lạc là một câu chuyện ngắn cấu tứ đơn giản, viết về cuộc sống của nhiều số phận con người sau chiến tranh, dẫu chịu nhiều đau thương vất cả, thế nhưng trong trái tim họ vẫn tràn trề một sức sống tiềm tàng mãnh liệt và hồi sinh một cách mạnh mẽ sau những đổi thay của cuộc sống. Từ đó bộc lộ một cảm hứng mới trong văn học Việt Nam giai đoạn những năm sau kháng chiến chống Pháp ấy là sự hồi sinh của đất nước, con người, với một niềm tin tích cực rằng chỉ cần cố gắng, nỗ lực vượt lên trên số phận thì cả con người và cả đất nước chắc chắn sẽ được hưởng những hạnh phúc, những thành tựu mà chúng ta hằng mong ước.