BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận khắc hoạ vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên biển cả. Qua ngôn ngữ giàu hình ảnh và âm thanh, bài thơ tôn vinh sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên, đồng thời thể hiện niềm tự hào về lao động lao động sản xuất.

Lê Quý Đôn đã từng nói: "Nếu trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi sông kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được." Tuy nhiên, theo nhận xét của Hoài Thanh và Hoài Chân, nhà thơ Huy Cận chỉ “thu nhặt những chút buồn rơi rớt để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường, thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc.” “Châu ngọc” ấy không chỉ là “ba vạn quyển sách” bất di bất dịch, không chỉ là “cảnh núi sông kì lạ” bất biến theo thời gian mà còn là tầm vóc của vũ trụ, là nỗi niềm đi cùng với nhân thế. Trái tim của ông như đập chung một nhịp với trái tim của thời đại. Trước năm 1945, vần thơ của ông sao mà tha thiết, não nề đến thế:

“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lòng

Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa

Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa

Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi.”

Sau năm 1945, khi cả đất nước dữ dội, sôi nổi trong cơn sóng của cách mạng, nhiều thi sĩ đã lỡ bước, trượt chân, sa lầy vào thuở quá khứ buồn tủi mà lạc mất giữa nhịp thời sôi nổi. Nhưng Huy Cận, là “một phần” của thế gian này, cũng dần bước ra khỏi “thung lũng đau thương” với thiên cổ sầu trước kia. Đánh dấu sự trở lại với một “chàng Huy Cận” mới, phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”. Nổi bật lên là khung cảnh thiên nhiên ẩn chứa bao điều mà nhà thơ Huy Cận muốn gửi gắm.

Không giống cách người ta ví von thiên nhiên sao cho to lớn mà rợn ngợp, tựa một vị ẩn sĩ khó đoán, thất thường như cảnh biển được miêu tả trong “Đoạn trường tân thanh”:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”

Cảnh biển hay cảnh chiều tối lại gợi lên một không gian rộng lớn khiến con người không tránh khỏi cảm giác cô đơn, lạc lõng, lẻ loi. Tuy nhiên, vẫn là không gian, thời gian ấy, vần thơ của Huy Cận lại đem đến xúc cảm ấm áp, ôm ấp, chở che cho cuộc hành trình ra khơi của những người dân chài:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

Mặt trời – thứ ta vốn coi thật xa xôi, vĩnh hằng, thậm chí ta còn chưa một lần dám nhìn thẳng, lại được Huy Cận so sánh với hòn lửa – một vật nhỏ bé, tầm thường, ngày nào ta cũng thấy trong đời sống hàng ngày. Bằng cách so sánh mặt trời với hòn lửa, nhà thơ đã khéo léo khiến cảnh sắc thiên nhiên không còn xa vời mà trở nên gần gũi, sinh động hơn bao giờ hết. Đối với Huy Cận, thiên nhiên không phải kẻ thù để ta chinh phục, cũng chẳng phải điều gì đó nguy hiểm mà ta phải tránh xa. Thiên nhiên là một người bạn đồng hành, một người mẹ có tấm lòng bao la, thấm thía tình cảm với con người, cho ta miếng ăn cái mặc. Ông nhắc đến thiên nhiên như một người bạn cũ đã lâu, vẫn luôn lặng thầm kề bên ta. Nhà thơ so sánh như vậy không phải để làm mất đi tầm vóc cao cả của thiên nhiên mà để đưa những điều vĩ đại, bất tận như sóng hay màn đêm trở thành một ngôi nhà thân thương của những người dân, luôn chào đón họ trở về trong vòng tay mỗi khi hoàng hôn dần buông. Lao động không còn là một nghĩa vụ mà trở thành một niềm vui, một chuyến ngao du độc tấu lên những câu hát cùng ngọn gió, cùng thiên nhiên:

“Biển bằng không có dòng xuôi ngược,

Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm.”

Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ Huy Cận không chỉ làm rõ nội dung câu hát ca ngợi sự giàu có, trù phú của biển cả quê hương mà còn lồng ghép lòng biết ơn dào dạt của những người dân, đã cho họ được sống vì những vẻ đẹp non nước của thiên nhiên hữu tình, đa dạng này:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Quả đúng như ta vẫn thường nhắc nhở con cháu từ đời này sang đời sau “Rừng vàng biển bạc”. Nhà thơ Huy Cận sử dụng hình ảnh cá bạc mang tính liên tưởng, vừa phác họa rõ nét màu bạc của vẩy cá lấp lánh trên mặt biển. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh thủy mặc tĩnh lặng nhưng đẹp đến mức khiến lòng người dậy sóng, như nhìn thấy trước mắt cảnh tượng hùng vĩ, như nghe được bên tai tiếng sóng vỗ hòa với tiếng gió hát, như ngửi được mùi nồng mặn của biển khơi. Đồng thời cũng khiến người đọc cảm nhận sâu sắc biển cả quê hương, đất nước ta đẹp đẽ, quý báu đến nhường nào. Đọc những dòng thơ của Huy Cận, ta cũng đôi lần tự hỏi như nhà thơ Chế Lan Viên rằng “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” Hơn nữa, nhà thơ còn đan xen hình ảnh so sánh “cá thu như đoàn thoi” được nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” đã làm cho khung cảnh biển cả qua “lăng kính” của ông trở nên phong phú, thú vị đến kỳ lạ. Cả đại dương trở nên lấp lánh, rực rỡ vì tấm vải khổng lồ được dệt nên bởi muôn vàn loài cá quý.

Người lao động cũng dành tình cảm cho biển cả như biển cả luôn dành cho họ. Họ thân thương gọi “đoàn cá ơi” và xưng “ta”, dường như giữa con người và thiên nhiên không còn là bức tường xa cách mà trở nên khăng khít tựa những người bạn, người thân đáng mến. Điều ấy khiến ta chợt nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:

“Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?

Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?

Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy

Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?”

Nếu con người không trân trọng, mến yêu thiên nhiên đến vậy, thì có lẽ chẳng nơi đâu có sắt có vàng, chẳng nơi đâu còn luồng cá chạy và cũng chẳng nơi đâu cho điện quay chiều. Chính vì tình cảm ấy vẫn luôn sâu đậm, có trước có sau nên thiên nhiên và con người vẫn luôn đồng hành cùng nhau:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng”

Gọi Huy Cận là một nhà thơ, chẳng bằng gọi ông là một họa sĩ. Ông tạc ra một kiệt tác theo phong cách của chính mình, riêng tư, kín đáo mà lãng mạn, thơ mộng, khó phân thực ảo. Cánh “buồm trăng” kia chẳng biết là cánh buồm đầy đặn, no gió, từ xa nhìn lại tựa một vầng trăng thứ hai, hay “buồm trăng” ấy là bóng dáng vầng trăng phản chiếu dưới mặt nước, dát vàng dát bạc khắp thế gian. Chẳng ai rõ, chỉ biết mỗi người có một câu trả lời thi vị cho riêng mình, còn đối với Huy Cận, có lẽ chiếc thuyền với cánh “buồm trăng” ấy bước ra từ một thế giới cổ tích khác. Mạch liên tưởng ấy tiếp tục được khai thác ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh “mây cao với biển bằng” đã trả lại cho thiên nhiên cảm giác vũ trụ bạt ngàn, kỳ vĩ quen thuộc trong thơ Huy Cận. Nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc con người được đặt giữa không gian ấy sẽ trở nên đơn lẻ, lo lắng mà càng thêm vẻ hào hứng, phấn khởi. Họ không chỉ mang trong mình vẻ đẹp của những người lao động mới, mà họ còn mang vẻ đẹp tâm hồn say mê trước cái đẹp của một thi sĩ:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh