BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi không chỉ là bản tuyên ngôn độc lập hùng hồn mà còn là kiệt tác nghệ thuật. Tác phẩm kết hợp khéo léo giữa văn chương và chính luận, với hình ảnh sinh động, liệt kê phong phú và thủ pháp tương phản sắc sảo, khẳng định nền độc lập và tinh thần nhân nghĩa của dân tộc.

Dàn ý thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.

2. Thân bài:

2.1. Tác giả Nguyễn Trãi:

a. Thân thế, cuộc đời:

  • - Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội.
  • - Xuất thân trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
  • - Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan.
  • - 1417, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê.
  • - Nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn => Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời.
  • - Năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước.
  • - Năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát - Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.

b. Sự nghiệp sáng tác:

* Các tác phẩm chính trong các lĩnh vực:

- Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- Chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo.

- Địa lý: Dư địa chí - cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam.

- Văn học:

  • Chữ Hán: Ức Trai thi tập
  • Chữ Nôm: Quốc âm thi tập - cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay.

* Nhà văn chính luận kiệt xuất:

- Để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, ... dưới triều Lê.

- Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân.

- Đặc sắc nghệ thuật: Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng.

2.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo:

a. Hoàn cảnh ra đời:

- Ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước.

- Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà.

b. Ý nghĩa nhan đề:

- "Bình Ngô", tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ (bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc. Theo một cách lý giải khác giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo).

- Hai chữ "đại cáo" tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc.

- Khái niệm "cáo": (Tham khảo sách giáo khoa)

c. Bố cục:

Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

d. Nội dung:

- Đoạn 1: Nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn:

  • Tư tưởng nhân nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân.
  • Khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán.

- Đoạn 2: Nêu nên tính chất phi nghĩa của quân Minh xâm lược và tội ác của chúng trên đất nước ta:

  • Lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.
  • Tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.

- Đoạn 3:

+ Tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.

+ Kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn.

- Đoạn 4:

  • Tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ.
  • Rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận chung.

Thuyết minh Bình Ngô Đại Cáo giành cho học sinh giỏi

Mẫu số 1

"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi là một trong những tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam, nổi bật với việc phác thảo tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên, và đặc biệt là ý chí độc lập dân tộc một cách rõ rệt. Được viết bằng thể cáo, tác phẩm này không chỉ là một tuyên ngôn về chiến thắng của quân dân Việt trước giặc Ngô, mà còn là một bản văn xuôi biểu đạt sắc bén, thuyết phục với cấu trúc chặt chẽ và mạch lạc.

"Bình Ngô đại cáo" được chia thành bốn phần rõ rệt. Phần đầu tiên nêu lên tư tưởng cốt lõi về nhân nghĩa và sự độc lập dân tộc, là nền móng vững chắc cho những phần sau. Phần thứ hai tập trung phơi bày những tội ác của kẻ thù với các hành động tàn bạo như sát hại và bóc lột nhân dân vô tội. Phần thứ ba tái hiện quá trình chiến đấu khốc liệt của quân dân Lam Sơn với tất cả những khó khăn và vất vả, nhưng cuối cùng lại giành được chiến thắng rực rỡ. Đoạn kết của tác phẩm là lời tuyên bố độc lập, khẳng định chiến thắng và niềm tin vào một tương lai hòa bình và phồn vinh.

Ngoài việc là một tác phẩm lịch sử, "Bình Ngô đại cáo" còn là một biểu tượng văn học với những hình ảnh sinh động, lời văn uy nghiêm và sức mạnh tinh thần mãnh liệt. Tác phẩm này không chỉ ghi lại chiến công vĩ đại của dân tộc mà còn thể hiện lòng tự hào về truyền thống văn hóa và lịch sử Việt Nam, từ đó lan tỏa cảm hứng yêu nước qua các thế hệ.

"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi vừa là di sản văn học vĩ đại, vừa là bản tuyên ngôn sâu sắc về ý chí dân tộc, mãnh liệt và không bao giờ phai mờ trong lòng người Việt Nam.

Mẫu số 2

Nguyễn Trãi là một trong những tác giả vĩ đại của văn học trung đại Việt Nam, để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm kinh điển viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Các tác phẩm của ông phản ánh sâu sắc tình yêu thương đối với con người và quê hương. Bình ngô đại cáo là tác phẩm tiêu biểu nhất thể hiện những phẩm chất cao đẹp đó.

Tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, sau khi quân Minh bị đánh bại và phải rút lui, nhân dân Việt Nam giành lại độc lập. Trong bối cảnh hào hùng đó, Nguyễn Trãi viết Bình ngô đại cáo thay mặt vua Lê Lợi, công bố vào đầu năm 1428. Đây chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.

Bình ngô đại cáo được viết theo thể cáo - một thể loại văn bản có nguồn gốc từ Trung Hoa, thường dùng để công bố các sự kiện trọng đại. Giống như các thể loại văn học cổ khác, thể cáo có cấu trúc rõ ràng, lập luận sắc bén và lý lẽ thuyết phục. Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hội tụ đầy đủ các đặc điểm này, chứng minh sự tinh túy của tác phẩm.

Tác phẩm được chia làm 4 phần với 4 ý nghĩa khác nhau. Đoạn mở đầu bài cáo đã nêu lên luận điểm chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng để triển khai nội dung bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Sau khi đưa ra luận điểm chính nghĩa làm nền tảng, Nguyễn Trãi trong phần 2 đã phơi bày rõ ràng những tội ác tàn bạo của kẻ thù phương Bắc. Những hành động tàn sát và áp bức, từ việc "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn" đến các thuế khóa vô lý, đã được Nguyễn Trãi miêu tả một cách sống động và sắc bén. Ông vạch trần sự phá hoại môi trường và sức lao động của người dân Đại Việt bằng những lời lẽ thuyết phục.

Phần 3 của tác phẩm tái hiện quá trình gian khổ và kiên cường của cuộc chiến đấu, từ những khó khăn ban đầu đến thắng lợi vẻ vang trước sự xâm lược. Dù đối mặt với nhiều thử thách, nghĩa quân Lam Sơn, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, đã giành chiến thắng. Từ luận đề chính nghĩa, vạch rõ tội ác kẻ thù và mô tả quá trình chiến đấu, tác phẩm kết thúc bằng lời tuyên bố độc lập, khẳng định chủ quyền quốc gia và niềm tin vào một tương lai tốt đẹp.

Nguyễn Trãi không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc với nội dung, mà còn về nghệ thuật biểu đạt. Bài cáo kết hợp hài hòa yếu tố chính luận và văn chương, với hình ảnh chân thực và giọng điệu linh hoạt, từ tự hào về truyền thống dân tộc đến phẫn nộ khi vạch trần tội ác kẻ thù và khẳng định độc lập. Bình ngô đại cáo là một thiên hùng ca về chiến thắng vĩ đại của dân tộc, vừa mang giá trị lịch sử lẫn văn học, và tiếp tục khích lệ tinh thần và lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ sau. Nguyễn Trãi sẽ mãi mãi được nhớ đến như một nhà lãnh đạo kiệt xuất và nhà thơ tài ba của Việt Nam.

Mẫu số 3

Trong lịch sử văn học Việt Nam, có nhiều tác phẩm vĩnh cửu, dù qua bao năm tháng vẫn giữ nguyên giá trị, và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một ví dụ điển hình. Được gọi là một “thiên cổ hùng văn” và là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc, tác phẩm này không chỉ thể hiện lòng trung quân ái quốc mà còn thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và sự quan tâm chân thành đối với nhân dân. Bình Ngô đại cáo là minh chứng cho sự kết hợp hoàn hảo giữa nghệ thuật và tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi – một nhà chính trị lỗi lạc và nhà nhân đạo của dân tộc.

Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi, thành lập triều đại Hậu Lê, Nguyễn Trãi được giao nhiệm vụ viết Bình Ngô đại cáo để thông báo chiến thắng sau 10 năm đấu tranh kiên cường của nhân dân ta. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được viết bằng thể cáo và chữ Hán, chia thành bốn đoạn rõ ràng.

Mở đầu bài cáo, và xuyên suốt tác phẩm, là luận đề chính nghĩa mà Nguyễn Trãi nêu cao, phản ánh mục tiêu cao cả và thiêng liêng của cuộc kháng chiến, tạo nên mạch tư tưởng chảy dọc toàn bộ tác phẩm.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Khác với tư tưởng Nho giáo cho rằng tư tưởng nhân nghĩa là mối quan hệ yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của con người, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại lấy trừ bạo và yên dân làm cốt lõi. Nguyễn Trãi đề cao luận đề chính nghĩa với tư tưởng mang lại cuộc sống bình yên, no ấm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta tuy bé về dân số và quy mô nhưng lại có niềm tự hào rất lớn về độc lập, chủ quyền và nền văn hóa được thể hiện qua nhiều phương diện:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách chắc chắn nền lãnh thổ dân tộc trên nhiều phương diện như nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ được phân định rõ ràng, những nét riêng về phong tục, tập quán. Ngoài ra Đại Việt còn có các triều đại hào hùng sánh ngang với các triều đại phương Bắc. Chủ quyền không phụ thuộc vào thiên thư hay các yếu tố tâm linh mà được phân định hẳn hoi, khoa học. Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại lẫy lừng phương Bắc. Tuy quá trình dựng nước, giữ nước có lúc thăng, lúc trầm “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau” nhưng vẫn tồn tại ở đó những trang nam tử sẵn sàng chiến đấu khi đất nước lâm nguy.

“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi”

Bình Ngô đại cáo đã khẳng định rằng hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và áp bức các dân tộc yếu hơn sẽ phải trả giá đắt bằng xương máu và mạng sống. Dù quân xâm lược có bất chấp các nguyên tắc luân lý khi xâm phạm Đại Việt, họ vẫn phải chịu những thất bại thảm hại như “tiêu vong”, “bắt sống”, và “giết tươi”. Những chiến thắng vang dội của nhân dân ta chứng minh rõ ràng rằng mọi nỗ lực xâm phạm lãnh thổ nước ta đều dẫn đến thất bại và đau khổ.

“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
...
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.”

Khi đất nước ta đang lâm vào tình trạng rối ren với triều Hồ gặp nhiều khó khăn và nhân dân sống trong cảnh khốn khổ, mâu thuẫn nội bộ triều đình đạt đến mức cực điểm. Trong lúc này, quân Minh đã lợi dụng sự bất ổn để xâm nhập vào lãnh thổ Đại Việt, "thừa cơ gây họa". Quân xâm lược, với tư tưởng phi nghĩa, đã áp dụng những mưu kế đê hèn và thủ đoạn tàn nhẫn, bóc lột dân tộc ta đến tận cùng. Chúng bán máu của nhân dân ta trên chính mảnh đất quê hương để làm giàu cho dân tộc mình. Với hành động nhẫn tâm, chúng tạo ra sự hỗn loạn khắp nơi và những tội ác ngày càng tồi tệ. Những động từ mạnh như “nướng dân đen” và “vùi dập” giúp vạch trần bản chất độc ác của quân Minh.

Mẫu số 4

Trong số các tác phẩm văn học vinh danh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi nổi bật như một kiệt tác vượt thời gian. Được coi là áng “thiên cổ hùng văn”, tác phẩm này là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai với giá trị trường tồn.

Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, quê gốc ở Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) và sau đó chuyển về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Mặc dù gia đình ông nghèo, nhưng lại nổi bật với truyền thống yêu nước và sự quan tâm sâu sắc đến văn hóa, văn học. Cha của Nguyễn Trãi, Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh, và ông ngoại, Tư đồ Trần Nguyên Đán, đều là những học giả xuất sắc và có nhiều cống hiến cho triều đình.

Kế thừa truyền thống của tổ tiên, Nguyễn Trãi nỗ lực học tập và vào năm 1400, ông đỗ Thái học sinh và được bổ nhiệm làm quan dưới triều đại nhà Hồ. Tuy nhiên, khi giặc Minh xâm lược vào năm 1407, nhà Hồ không đủ sức chống cự, đất nước bị chiếm đóng, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, còn ông quyết định gia nhập nghĩa quân Lam Sơn để chống giặc và phục thù.

Nhờ sự lãnh đạo khéo léo và sự hỗ trợ từ những cộng sự xuất sắc như Nguyễn Trãi và Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đạt được chiến thắng vang dội trước quân Minh. Nguyễn Trãi được Lê Lợi, khi đó đã là vua của Đại Việt, trao cho sự tin tưởng cao quý. Tuy nhiên, sau đó triều đình gặp rắc rối, gian thần nổi lên, và Nguyễn Trãi quyết định trở về quê để tránh xa cơn bão chính trị.

Dù mong muốn sống ẩn dật của Nguyễn Trãi không thành hiện thực, ông lại rơi vào vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên vào năm 1442, dẫn đến án tru di tam tộc. Phải đến năm 1464, nỗi oan của ông mới được vua Lê Thánh Tông giải quyết.

Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc một di sản văn học phong phú và đa dạng. Ông sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, ở nhiều thể loại văn học, từ chính luận đến trữ tình. Nhiều tác phẩm của ông đã đóng góp quan trọng cho cuộc chiến chống giặc xâm lược và phản ánh sâu sắc những cảm xúc và quan điểm của ông về đất nước và con người.

Khi nói về Bình Ngô đại cáo, chúng ta thấy “Đại cáo bình Ngô” ra đời trong bối cảnh đất nước vừa kết thúc cuộc chiến gian khổ chống quân Minh. Sau chiến thắng, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết tác phẩm này nhằm tuyên bố với toàn dân về quyền độc lập của dân tộc. Được công bố vào năm 1428, “Đại cáo bình Ngô” không chỉ tổng kết quá trình kháng chiến mà còn là tuyên cáo về sự thành lập triều đại mới – triều đại nhà Lê.

Tác phẩm được viết theo một thể loại đặc biệt – thể cáo. Đây là một thể loại văn nghị luận cổ xưa ở Trung Quốc, thường được các vua chúa hoặc các nhà lãnh đạo dùng để trình bày các chủ trương, sự nghiệp, hay tuyên ngôn về các sự kiện quan trọng để thông báo cho mọi người. Thể cáo có thể được viết dưới dạng văn vần hoặc văn xuôi, nhưng thường thấy nhất là văn biền ngẫu – một thể loại văn học dựa trên nguyên tắc đối ý, tạo ra sự nhịp nhàng và cân đối cho lời văn. Cáo thường sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, lý luận sắc sảo, và đặc trưng quan trọng nhất là có kết cấu chặt chẽ và mạch lạc.

Nhan đề của tác phẩm đã giúp người đọc hiểu rõ giá trị của nó. Cụm từ “đại cáo” trong nhan đề cho thấy đây không phải là một bài cáo thông thường mà là một bài cáo mang tính chất quốc gia và trọng đại. Đặc biệt, mặc dù cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược là chủ đề chính, nhan đề lại chứa từ “Ngô”, đây là điểm cần chú ý. “Ngô” ở đây là cách gọi người Trung Quốc theo thói quen của người Việt, với thái độ khinh bỉ và căm thù sâu sắc. Từ lâu, các thế lực phương Bắc đã có ý đồ xâm lược đất nước ta, khiến nhân dân phải sống trong khổ cực và lầm than. Chính vì vậy, nhân dân ta không bao giờ nguôi giận trước sự tàn bạo và ngạo mạn của chúng, và tất cả sự căm phẫn và uất ức đều dồn về kẻ thù hiện tại – quân Minh.

Để khẳng định nền độc lập, mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa có ý nghĩa tất yếu:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Luận đề được nêu lên cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân, nước và sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa vốn là một quan niệm trong đạo Nho nói lên cách đối nhân xử thế tốt đẹp dựa trên tình thương và đạo giữa người với người trong cuộc sống. Thế nhưng trong thời buổi có giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa biểu hiện của một người biết sống nhân nghĩa là hành động “trừ bạo” để “yên dân”. Đó chính là chân lí khách quan phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Con dân đất Việt xông pha ra chiến trường diệt giặc là điều tất yếu vì nước Việt là của người Việt, có chủ quyền độc lập riêng. Điều này đã được khẳng định chắc chắn qua lịch sử, phong tục:

“Như nước Đại Việt ta từ trước.
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”

Qua các triều đại và cả sự hiện diện của những anh hùng hào kiệt mỗi thời:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy bên cạnh việc khẳng định nền chủ quyền, độc lập dân tộc, “Đại cáo bình Ngô” còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân ta suốt hai mươi năm dài xâm lược. Trong những ngày đầu đặt chân lên đất nước vì muốn đô hộ ta, chúng đã tỏ rõ là những kẻ xảo trá, bịp bợm:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.”

Chúng ra sức bóc lột, đẩy nhân dân ta vào chỗ hiểm nguy:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khi nỗi rừng sâu, nước độc.”

Tàn ác hơn, thâm độc hơn, chúng còn sẵn sàng hủy diệt sinh mệnh của con người bằng những cách hung bạo:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”

Giặt hiện lên quá với những hình ảnh ghê rợn:

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”

Thật sự những tội ác chất chồng mà chúng gây ra không thể nào đếm hết:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

Khi nói về tội ác của giặc, tác giả đã chọn cái vô hạn, khốn cùng của “trúc Nam Sơn”, của “nước Đông Hải” cũng để nói về cái vô hạn, khôn cùng là tội ác và sự nhơ bẩn của kẻ thù. Trong bản cáo trạng ấy, ta có thể thấy tác giả gửi gắm vào đó lúc là sự sục sôi, căm phẫn, khi lại uất hận, nghẹn ngào. Tác giả đau đớn, cất tiếng kêu oán thán: “Lẽ nào trời đất dung tha” – “Ai bảo thần nhân chịu được?” và điều đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng luôn hướng đến quyền sống của người dân, luôn lo cùng nỗi lo và đau cùng nỗi đau với nhân dân.

Với tội ác của giặc, quân dân ta đã nhất tề đồng lòng đứng lên chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập. Những người anh hùng cứu nước, và đặc biệt là vị minh soái tài ba Lê Lợi dù có xuất thân bình thường:

“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình”

Khi chiến đấu với kẻ thù lại trải qua muôn vàn khó khăn:

“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”

Có lúc phải đối diện với rất nhiều sự thiếu thốn về lương thực và cả lực lượng:

“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện quân không một đội.”

Tuy nhiên, với tinh thần kiên cường “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn” và niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã đoàn kết và nỗ lực vượt qua mọi thử thách. Cuối cùng, sau nhiều năm tháng đầy khó khăn, người chỉ huy phải “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì lo lắng”, “trằn trọc trong những giấc mơ bất an”, và “băn khoăn về số phận”, quân dân ta đã đánh bại kẻ thù đến mức “không còn dấu vết”, “tan tác như chim muông”. Chúng ta giành lại độc lập, và quân xâm lược thất bại thảm hại, đó là kết quả tất yếu của cuộc chiến tranh phi nghĩa mà chúng gây ra. Điều đáng lưu ý là mặc dù kẻ thù vô cùng độc ác và tàn bạo, sau những nỗi đau và căm hận, ta vẫn mở đường sống cho chúng với lòng nhân ái. Cuối cùng, ta đã dùng lòng nhân đạo để giải quyết hận thù. Điều này cho thấy, cách ứng xử của ta với tội ác đã nâng cao tinh thần nhân nghĩa lên một tầm cao mới.

Nền độc lập và tự do được phục hồi cho đất nước, sau bao đau thương, chính là kết quả đáng tự hào của một dân tộc dũng cảm và biết sống nhân nghĩa. Khi thuyết minh về Bình Ngô đại cáo, không thể không nhắc đến việc Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi công bố rộng rãi cho toàn dân:

“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục sạch làu.”

Lời tuyên bố cho thấy một niềm tin mãnh liệt của tác giả về nền thái bình vững chắc, lâu bền của dân tộc. Sau những ngày tháng sống cảnh áp bức, bóc lột tối tăm, mờ mịt, quân dân ta đã tìm lại được ánh sáng cho sự sống của chính đất nước mình. Hai câu kết của bài cáo vang lên cũng chính là sự khép lại của thời kì chiến đấu oanh liệt và sự mở ra của một giai đoạn tươi sáng, phát triển:

“Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.”

Khi thuyết minh về Bình Ngô đại cáo, ngoài những khía cạnh nội dung, “Đại cáo bình Ngô” còn nổi bật như một kiệt tác nhờ vào những đặc điểm nghệ thuật độc đáo. Trong việc sáng tác tác phẩm, Nguyễn Trãi đã kết hợp một cách tinh tế giữa văn chương và chính luận. Hơn nữa, ông sử dụng một giọng văn rất linh hoạt, cùng với những hình ảnh sống động và hùng tráng.

Nguyễn Trãi cũng thể hiện sự sáng tạo trong việc liệt kê hình tượng phong phú và đa dạng, làm nổi bật sự tương phản giữa ta và kẻ thù trong cuộc kháng chiến. Đoạn viết về cuộc khởi nghĩa của ta có thể được coi là một trong những phần đặc sắc nhất về mặt nghệ thuật của “Đại cáo bình Ngô”.

Điều này bởi vì nhà thơ đã rất thành công trong việc thể hiện các phương thức nghệ thuật như liệt kê hình ảnh và thủ pháp tương phản. Lực lượng của ta thì “điều binh thủ hiểm”, “chặt mũi tiên phong”, “sai tướng chặn đường”, “cắt đứt nguồn lương thực”, và “vây thành từ bốn phía”; trong khi quân địch thì “dồn dập động binh”, “dùng dầu chữa cháy”. Lực lượng của ta được miêu tả là “sĩ tốt chọn người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ mạnh mẽ”, còn quân địch lại xuất hiện với hình ảnh “thất thế”, “cụt đầu”, “thất bại và tử vong”, “cùng đường tự vẫn”…

Với những giá trị này, “Đại cáo bình Ngô” thực sự xứng đáng là một tác phẩm được lưu danh trong sử sách mãi mãi. Bài cáo không chỉ khẳng định mạnh mẽ nền độc lập và chủ quyền của đất nước mà còn thể hiện cuộc đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm và lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta.