Nguyễn Du, đại thi hào của Việt Nam, với tác phẩm bất hủ "Truyện Kiều", không chỉ làm rạng danh văn học nước nhà mà còn ghi dấu ấn sâu đậm trên nền văn hóa thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là minh chứng cho tài năng và tâm huyết vô hạn đối với văn chương.
Mục lục [Ẩn]
Dàn ý Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du
I. Mở bài: Giới thiệu về Nguyễn Du.
- Nguyễn Du nổi tiếng là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa mà cả thế giới biết đến.
- Ông có sự nghiệp văn học đồ sộ trong đó phải kể đến truyện Kiều cùng nhiều thể loại thơ chữ nôm và chữ Hán.
II. Thân bài:
Tóm tắt về cuộc đời của Nguyễn Du
- Ông tên tự Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820) sinh ra tại Thăng Long.
- Sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu có, truyền thống nghệ thuật, yêu văn chương.
- Thời kì của ông đất nước có nhiều chuyển biến lớn và biến động trong xã hội.
- Ông có tuổi thơ bất hạnh khi sớm mất cha mẹ, phải lang thang nhiều nơi trong xã hội nên am hiểu văn hóa nhân gian.
- Nguyễn Du từng có thời gian đỗ đạt và làm quan triều Lê và Nguyễn. Ông liêm khiết, vô tư được nhiều người mến mộ.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du
- Ông sáng tác thơ gồm có thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm có 2 tác phẩm tiêu biểu là “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.
- Thơ ông luôn phản ánh hiện thực cơ cực của tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đồng thời lý tưởng nhân đạo bênh vực nhân dân, những con người bị chèn ép trong xã hội xưa.
- Ngôn ngữ trong tác phẩm của của ông trong sáng, tinh tế. Ông giúp thúc đẩy nền văn chương nước nhà phát triển, đặc biệt là sự đa dạng phong phú của tiếng việt.
- Được Unesco công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
III. Kết bài:
- Nguyễn Du là một trong những thi sĩ góp công giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Ông xứng đáng là đại thi hào tài hoa trong nền văn học nước nhà.
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du giành cho học sinh giỏi
Mãu số 1
“Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng Nhân tình nhắm mắt chưa xong Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?”
Khi đọc những vần thơ này của Tố Hữu, trong lòng mỗi người ta lại hiện lên hình ảnh của Nguyễn Du – người được người Việt kính trọng gọi là “Đại thi hào dân tộc”, với đóng góp to lớn và xuất sắc cho văn học Việt Nam cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tự là Thanh Hiên. Ông sinh năm 1765 và mất năm 1820. Nguyễn Du sinh ra, lớn lên, và ở giai đoạn thơ niên của mình sống tại Thăng Long, trong một gia đình phong kiến quyền quý. Quê hương của Nguyễn Du là xã Nghi Xuân, huyện Tiền Điền, tỉnh Hà Tĩnh – nơi có những làn điệu dân ca nhẹ nhàng, du dương. Ngoài ra, vợ Nguyễn Du quê ở Quỳnh Côi, trấn Nam Sơn (nay thuộc tỉnh Thái Bình) – nơi mà ông đã sống trong khoảng thời gian "mười năm gió bụi". Điều này đã mở ra cho Nguyễn Du cơ hội để tiếp xúc và khám phá nhiều vùng văn hóa khác nhau. Có thể nói rằng đây là nền tảng thuận lợi để ông phát triển sự tổng hợp nghệ thuật trong tâm hồn và sáng tác của mình. Gia đình ông có truyền thống học thuật uyên bác, vì thế quê hương và gia đình chính là nguồn gốc nuôi dưỡng một nhà thơ uyên bác, đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại đầy biến động. Đó là thời kỳ đất nước bị chia cắt, xã hội rối ren và loạn lạc khắp nơi, cuộc sống của người dân rất khó khăn. Cùng lúc đó, các phong trào đấu tranh của nhân dân bùng nổ, trong đó có phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Những điều này đã có tác động sâu sắc đến tư tưởng và sự sáng tạo trong những tác phẩm của Nguyễn Du.
Nguyễn Du không phải là người sống cuộc sống an nhàn. Dù được sinh ra trong một gia đình quyền quý, ông phải đối mặt với nhiều bi kịch và khó khăn. Cha ông mất khi ông còn rất nhỏ, và ba năm sau đó, mẹ ông cũng qua đời. Từ đó, Nguyễn Du đã sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Anh trai đã giúp đỡ ông trong việc học tập và dìu dắt ông theo con đường học thuật. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương và đỗ tam trường, sau đó được nhận một chức quan nhỏ. Tuy nhiên, sự bình yên không kéo dài, khi năm 1789, nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du buộc phải lánh về quê vợ và bắt đầu cuộc sống "mười năm gió bụi", đầy khổ cực và tủi nhục. Sau thời gian sống khó khăn ở nhiều vùng quê khác nhau, vào năm 1802, Nguyễn Du buộc phải chấp nhận ra làm quan dưới triều Nguyễn, và từng giữ nhiều chức vụ như Tri huyện, Tri phủ, Cai Bạ Quảng Bình. Ngoài ra, ông còn được cử đi sứ sang Trung Quốc, và năm 1820, ông một lần nữa được cử đi sứ nhưng không kịp đi đã mắc bệnh và qua đời.
Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Du đã để lại nhiều tác phẩm văn học xuất sắc cho nền văn học Việt Nam, bao gồm cả các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm viết bằng chữ Hán của ông bao gồm ba tập thơ: “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” với tổng cộng 249 bài. Nổi bật trong các tác phẩm viết bằng quốc âm của Nguyễn Du là “Đoạn trường tân thanh”, hay còn được biết đến với tên gọi “Truyện Kiều”. Tác phẩm này được Nguyễn Du sáng tạo dựa trên cốt truyện của Kim Vân Kiều, một tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, thể hiện sự nghệ thuật bậc thầy của ông và đã trở thành đề tài nghiên cứu, bình luận và tranh luận nhiều.
Cuộc đời hơn năm mươi năm của Nguyễn Du dù chứa đầy bi kịch và thăng trầm, nhưng ông vẫn là một tài hoa với trái tim luôn đong đầy niềm yêu thương và nỗi đau sâu lắng cho nhân loại. Nguyễn Du là một nhân tài vượt thời gian, với sự nghiệp sáng tác mang lại dấu ấn lớn lao cho văn học Việt Nam.
Mẫu số 2
Nguyễn Du, sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên thật là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, lớn lên trong một gia đình quý tộc. Khi mới 10 tuổi, ông phải chịu đựng mất mát lớn khi cha qua đời, và năm 13 tuổi, mẹ cũng mất. Sau đó, Nguyễn Du chuyển đến sống cùng người anh cùng cha khác mẹ, Nguyễn Khản.
Do nhiều biến cố lịch sử, từ một gia đình giàu có, Nguyễn Du đã trải qua cuộc sống khó khăn và nghèo khổ. Tuy nhiên, năm 1802, ông được bổ nhiệm làm quan dưới triều đại nhà Nguyễn, cuộc sống và sự nghiệp của ông bắt đầu thay đổi tích cực.
Nguyễn Du là một nhà thơ uyên bác, thành thạo nhiều thể loại thơ Trung Quốc như ca, hành, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật,... Ông cũng nổi bật với tài làm thơ bằng chữ Nôm, với đỉnh cao là “Truyện Kiều”. Ngày nay, “Truyện Kiều” vẫn được xuất bản rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng để bạn đọc toàn cầu có thể thưởng thức và đánh giá. Tác phẩm này nhận được sự tôn vinh cao từ các chuyên gia và nhà nghiên cứu văn học.
Các tác phẩm của Nguyễn Du thường nhấn mạnh xúc cảm, tình nghĩa, và tình yêu. Ông khái quát cuộc đời và thân phận con người trong xã hội phong kiến với tính triết lý sâu sắc và đầy xúc cảm.
Nguyễn Du sống trọn vẹn với nghệ thuật và tình cảm, để lại nhiều tác phẩm vĩ đại, nổi bật nhất là “Truyện Kiều”. Qua tác phẩm này, ta thấy rõ sự độc ác của xã hội phong kiến và cảm nhận được những ý nghĩa sâu sắc mà Nguyễn Du gửi gắm trong từng câu thơ. Nguyễn Du là một người thâm thúy, trải nghiệm phong phú, đầy tình yêu nhân dân, hiểu biết về bản thân và đời sống, khao khát hòa bình cho dân tộc.
Mẫu số 3
Nguyễn Du, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1765 tại Thăng Long, tên thật là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, là một nhà thơ sống trọn vẹn với nghệ thuật. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc lớn, với cha là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm, tể tướng triều Lê, và mẹ là bà Trần Thị Tần, nổi tiếng xinh đẹp. Sau khi cha mẹ mất sớm, ông phải sống với người anh cùng cha khác mẹ, Nguyễn Khản, người có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp của ông.
Dù có sự nghiệp quan lộ thành đạt, Nguyễn Du không mấy bận tâm đến danh vọng. Ông cảm thấy đau xót và bất bình trước thực trạng xã hội, và tận tâm dồn cả sức lực vào văn chương và thi ca.
Thơ của Nguyễn Du là sự thể hiện sâu sắc cảm xúc và thái độ của ông đối với cuộc đời và thân phận con người. Mặc dù xuất thân từ tầng lớp quý tộc và sống trong môi trường văn hóa cao cấp, ông vẫn dùng ngôn ngữ giản dị và gần gũi, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.
Tác phẩm của ông có thể được chia thành ba giai đoạn. Trong thời gian ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến năm 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón” và “Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”, thể hiện rõ tâm tư và sự hòa quyện giữa tâm hồn tác giả với thiên nhiên và con người.
Về thơ chữ Hán, “Thanh Hiên Thi Tập” gồm 78 bài, viết khi ông ở Quỳnh Côi và mới về Tiên Điền, thể hiện sự trăn trở và tâm sự của nhà thơ về cuộc đời loạn lạc. Sau năm 1809, các sáng tác của ông được tập hợp trong “Nam Trung Tạp Ngâm”, gồm 40 bài thơ đầy cảm xúc và nỗi niềm.
“Truyện Kiều” là tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Du, được ông chuyển thể từ tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều” của Thanh Tâm Tài Nhân. “Truyện Kiều” đã được đón nhận nồng nhiệt và trở thành vấn đề xã hội, như cuộc tranh luận giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh.
Tác phẩm không chỉ được tầng lớp thị dân yêu thích mà còn được các tầng lớp trên say mê. Vua Minh Mạng đã tổ chức ngâm vịnh “Truyện Kiều” và cho sao chép để lưu truyền. Vào thời Tự Đức, vua thường triệu tập các khoa bảng để viết và vịnh “Truyện Kiều” tại văn đàn.
Ngày nay, “Truyện Kiều” vẫn được xuất bản rộng rãi và dịch ra nhiều ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu quốc tế đánh giá cao tác phẩm này, như nhà nghiên cứu Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc, người so sánh “Truyện Kiều” với các kiệt tác văn học toàn cầu. Ông khen ngợi tác phẩm là “độc nhất vô nhị” và “làm rung động tâm hồn của một dân tộc”. Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du.
Nguyễn Du là một nhà thơ sống trọn vẹn với nghệ thuật và cảm xúc, và điều này thể hiện rõ nét qua “Truyện Kiều”. Đọc tác phẩm, ta thấy xã hội phong kiến, đồng tiền và cảm nhận một Nguyễn Du thâm thúy, nhân ái, hiểu đời và khao khát hòa bình cho dân tộc.
Mẫu số 4
Nếu mỗi quốc gia đều có những nhà thơ, nhà văn để tự hào riêng, như Trung Quốc với Lỗ Tấn và Nga với Maksim Gorki, thì Việt Nam cũng tự hào về Nguyễn Du. Ông đã nâng tầm nền văn học Việt Nam với tác phẩm vĩ đại của mình, “Truyện Kiều”, tác phẩm đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau. Với học vấn uyên bác và tài năng văn học xuất sắc, tư tưởng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du đã tạo nên một niềm tự hào dân tộc to lớn qua “Truyện Kiều”.
Nguyễn Du xuất thân từ một gia đình quý tộc, với cha và mẹ đều là quan trong triều đình và được trọng dụng. Tuy nhiên, khi ông 13 tuổi, cha mẹ mất sớm, và ông phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Đến năm 15 tuổi, khi Nguyễn Khản bị cáo buộc mưu phản, Nguyễn Du phải nương nhờ nhà họ hàng. Cuộc đời ông gắn liền với những biến động lịch sử của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thời kỳ mà chế độ phong kiến thể hiện sự thối nát và tham lam, không quan tâm đến đời sống nhân dân.
Sau nhiều năm phiêu bạt, vào năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du trở thành quan chức. Ông được cử sang Trung Quốc hai lần, nhưng lần thứ hai vào năm 1820, ông chưa kịp đi thì đã qua đời đột ngột tại Huế. Dù trải qua nhiều thăng trầm, cuộc đời ông đã tạo nên một con người tài hoa với kiến thức sâu rộng và lòng thương cảm sâu sắc với số phận con người. Ông là một đại thi hào với nhiều tác phẩm vĩ đại như ba tập thơ chữ Hán: “Thanh Hiên Thi Tập”, “Nam Trung Tạp Ngâm”, “Bắc Hành Tạp Lục” và tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng “Truyện Kiều”.
Trước đây, “Truyện Kiều” được gọi là “Đoạn Trường Tân Thanh”. Nguyễn Du đã kế thừa và sáng tạo từ truyện “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Khác với bản gốc, “Truyện Kiều” được viết bằng thể thơ lục bát, gồm 3.254 câu thơ, chia thành ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, Gia biệt và lưu lạc, Đoàn tụ.
“Truyện Kiều” không chỉ phản ánh số phận khổ đau của người phụ nữ xinh đẹp “hồng nhan bạc phận” mà còn là bản cáo trạng mạnh mẽ về tội ác của xã hội phong kiến. Tác phẩm kêu gọi tự do và công lý trong xã hội.
Sự thành công của một đại thi hào như Nguyễn Du là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là cái “Tâm” và cái “Tài” của người nghệ sĩ. “Truyện Kiều” sẽ mãi mãi sống trong lòng người Việt Nam nhờ giá trị nghệ thuật và nội dung sâu sắc của nó.
Mẫu số 5
Cuộc đời của Nguyễn Du trải qua nhiều thăng trầm. Sau những năm đầu đời bình yên, từ năm 10 tuổi, ông đã phải đối mặt với mất mát lớn: cha ông qua đời và mẹ ông cũng mất hai năm sau đó. Nguyễn Du phải sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Vào tuổi 19, ông thi hương đỗ tam trường và nhận một chức quan võ tại Thái Nguyên. Sau khi nhà Lê sụp đổ vào năm 1789, Nguyễn Du rút về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp tục sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, trải qua khoảng thời gian “mười năm gió bụi” đầy khó khăn.
Khi nhà Nguyễn được thành lập vào năm 1802, Nguyễn Du phải miễn cưỡng nhận chức quan. Ông đã đảm nhận nhiều vị trí như tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Đến năm 1813, ông được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Sau khi trở về, ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, Nguyễn Du được cử đi Trung Quốc lần nữa, nhưng chưa kịp lên đường thì qua đời đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn trong một trận dịch lớn.
Dù cuộc đời Nguyễn Du đầy sóng gió, ông đã để lại một di sản văn học quý giá, phong phú về số lượng và sâu sắc về nội dung, với sự xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện. Ông viết cả bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán của ông gồm ba tập: “Thanh Hiên Thi Tập”, viết khi ông sống ở quê vợ và quê nhà; “Nam Trung Tạp Ngâm”, sáng tác trong thời gian làm quan ở Quảng Bình; và “Bắc Hành Tạp Lục”, tập thơ xuất sắc nhất của ông, viết trong thời gian đi sứ Trung Quốc.
Những tập thơ này bao gồm nhiều bài đặc sắc như “Độc Tiểu Thanh Ký”, “Sở Kiến Hành”, “Long Thành Cầm Giả Ca”, và “Thái Bình Mại Ca Giả”. Trong thơ chữ Nôm, Nguyễn Du nổi bật với kiệt tác “Truyện Kiều” và một tác phẩm nổi tiếng khác, “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”.
Các sáng tác của Nguyễn Du không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thực và cảm động, mà còn thể hiện một ý thức phản kháng xã hội mạnh mẽ và khát vọng vun đắp cuộc sống hạnh phúc cho con người. Ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông đạt đến mức tinh tế và nhuần nhuyễn, kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bác học và bình dân, tạo nên nhiều sắc thái biểu cảm đa dạng.
Cuộc đời hơn năm mươi năm của Nguyễn Du, dù đầy bi kịch và thử thách, vẫn là cuộc đời của một tài năng vĩ đại và một trái tim luôn tràn đầy yêu thương và xót đau cho những số phận bất hạnh. Nguyễn Du là một tài năng và tâm hồn sáng ngời qua thời gian.
Mẫu số 6
Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa toàn cầu, và dưới ngòi bút tài ba của ông, “Truyện Kiều” đã trở thành một tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam, được dịch ra nhiều thứ tiếng để độc giả khắp nơi trên thế giới có thể thưởng thức.
Tên thật của ông là Tố Như, sinh tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông lớn lên trong một gia đình quý tộc với cha mẹ đều là quan chức trong triều đình và được vua trọng dụng.
Khi còn nhỏ, Nguyễn Du sống trong cảnh giàu sang, nhưng sau cái chết của cha mẹ, ông rơi vào tình cảnh nghèo khổ, sống lay lắt không nơi trú ẩn. Những năm tháng sống giữa xã hội đầy bất công, đặc biệt là chứng kiến nỗi đau khổ của trẻ em, phụ nữ và người lao động, đã hình thành nên tính cách và tài năng của Nguyễn Du.
Những tác phẩm của Nguyễn Du mang đậm giá trị nghệ thuật và phản ánh chân thực cuộc sống vất vả của chính ông và xã hội rối ren, bất công. Đọc các tác phẩm của ông, người đọc sẽ cảm nhận được tinh thần nhân đạo mạnh mẽ, tôn vinh những số phận bất hạnh, đặc biệt là phụ nữ, những người đã phải chịu đựng nhiều thiệt thòi.
Nguyễn Du không chỉ nổi bật về yếu tố nghệ thuật mà còn là người đặt nền móng cho các tác phẩm dân gian nước ta đạt đến trình độ tinh xảo. Ông đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, miêu tả tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, góp phần làm phong phú và nâng cao ngôn ngữ tiếng Việt. Ông chính là một trong những người đã đưa nền văn học nước nhà lên một tầm cao mới.
Các tác phẩm của Nguyễn Du thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, khát vọng tự do và công bằng, và lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh trong xã hội phong kiến. Ông không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ mà còn chỉ trích sự tàn ác của chế độ phong kiến.
Nguyễn Du là một tài năng vĩ đại đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngôn ngữ tiếng Việt, làm cho nó trở nên phong phú và linh hoạt hơn. Ông chắc chắn là một thi sĩ đã nâng tầm nền văn học trung đại nước nhà.