BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Đại văn hào Andersen từng nói: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống vẽ nên." Dù hiện thực đau khổ đến đâu, vẫn le lói những ánh sáng trong trẻo, ấm áp đong đầy. Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ từ "hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người" mà các nhà văn luôn mải miết đi tìm. Nguyễn Quang Sáng là một người đi tìm miệt mài như thế. Giữa tháng ngày gian khổ, tối tăm nhất của kháng chiến chống Mỹ, ông vẫn thấy tia sáng xanh ngời từ tình cảm chân thành trong những người dân, người lính. Để rồi, tất cả đã được nhà văn soi chiếu vào tình cha con sâu nặng trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành gắn liền với cả hai cuộc kháng chiến, là một cây đại thụ của văn học cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông như thâu tóm được cả hồn cốt Nam Bộ, có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng sông, cái khoáng đạt giản đơn của người dân miền sông nước. Cùng với Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng,… “Chiếc lược ngà” cũng nằm trong mạch nguồn ấy. Được viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt nhất, truyện ngắn tuy viết về chiến tranh nhưng lại tập trung làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng cao quý. Tựa như câu chuyện cổ tích thời hiện đại, tác phẩm đã làm rung động trái tim bạn đọc bao thế hệ bởi tình yêu thương con thắm thiết bất diệt của Ông Sáu, tình yêu ba sâu nặng đầy kiêu hãnh của bé Thu.

Tựa như mặt nước ngọt lành và trong veo đến lạ, văn chương luôn phản chiếu nội tâm con người. Bởi thế mà lật giở từng trang sách “Chiếc lược ngà” ta như mở từng cánh cửa, từng bước khám phá tình yêu thương da diết, chân thành dành cho con sâu trong lòng một người cha, người lính.

Là một người con Nam Bộ, ông Sáu chẳng thể làm ngơ khi mảnh đất quê hương bị giày xéo. Nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông lên đường cùng dân tộc bước vào cuộc trường chinh. Hạnh phúc gia đình ông xếp lại ngăn nắp trong tim, ông đi kháng chiến khi đứa con gái đầu lòng còn chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ thương con, khao khát gặp con lúc nào cũng thường trực như con sóng cuộn trào nơi tấm lòng người ba ấy. Không giây phút nào ông nguôi nhớ đến con, tình yêu con trở thành động lực, sức mạnh tinh thần vô giá giúp ông thêm chắc tay súng diệt sạch bóng thù để sớm có ngày đoàn tụ.

Và ước muốn cháy bỏng của ông cuối cùng cũng đã thành sự thực. Sau tám năm xa cách ông có dịp về thăm nhà ba ngày. Trên đường trở về “cái tình người cha đã và cứ nôn nao trong dạ”. Thế nên thuyền vừa vào đến, thấy đứa trẻ trạc độ lên chín lên mười tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đỏ đang mải mê chơi nhà chòi dưới gốc xoài ông đã đoán biết đấy là con mình. Phải chăng đó là sức mạnh diệu kỳ của tình máu mủ? Phải chăng từng ngày nơi quân ngũ, người cha ấy đã luôn mường tượng dáng hình của con, hằng khát khao ôm ấp, vỗ về. Cho nên linh cảm ruột thịt đó mới chuẩn xác đến vậy. Nó bồn chồn xao động, nó da diết khôn nguôi, nó như những tế bào hồng cầu trong từng tơ máu, máu còn chảy, tim còn đập thì lòng người không thể nào nguôi ngoai. Và nó làm lý trí trở thành công cụ của con tim. Không thể chờ xuồng cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên bờ vội vàng với những bước dài, vừa đi vừa kêu to “Thu, con”! Những bước chân như chiếc bản lề cửa, tạm khép lại cuộc đời “người lính” để mở ra cơ hội làm trọn một “người cha” cho ông Sáu. Với ông, chờ đợi thêm một phút một giây nào nữa thôi, có lẽ cũng đủ bóp nghẹt trái tim. Từ nôn nao tâm trạng ông Sáu đã chuyển sang nôn nóng. Có lẽ bởi: “Có hai điều không thể bỏ lỡ trong cuộc sống, đó là chuyến xe cuối cùng về nhà và người ta yêu thật lòng” (Nguyễn Nhật Ánh). Đây là lần trở về đầu tiên sau tám năm xa cách và cũng có thể là sau cuối của ông, là cơ hội hiếm hoi để ôm con vào lòng, sống trong tình cha con ấm áp mà ông chưa từng được hưởng. Vậy mà mọi chuyện diễn ra thật éo le. Trong khi ông vừa bước tới vừa dang tay đón chờ thì con bé lại ”giật mình tròn mắt nhìn”, cái nhìn vừa lạ lùng vừa ngơ ngác. Không ghìm nổi xúc động, vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên, hai tay vẫn đưa về phía trước “Ba đây con, ba đây con”. Người đọc cảm nhận trong giọng nói “lặp bặp run run” ấy, là cả tiếng lòng, cả tâm hồn người cha đang reo lên vì hạnh phúc. Một hạnh phúc vô bờ khi hội ngộ khiến người đàn ông từng vào sinh ra tử chợt nghẹn ngào khôn xiết, tưởng như tất cả là một giấc mơ và chỉ có thể cất tiếng “run run”, khẽ khàng để không thức dậy. Song, với một đứa trẻ chỉ mới tám tuổi, tất cả lại trở thành sự vồ vập thái quá, nôn nóng thái quá, đặc biệt khi vết thẹo trên má ông đỏ ửng lên, dần dật trông rất dễ sợ càng làm con bé nghi ngại. Nó mặt tái đi, vụt chạy, vừa chạy vừa kêu thét “má má”. Phản ứng sợ hãi của bé Thu khiến ông Sáu đau đớn hụt hẫng. “Đau đớn khiến mặt anh sầm lại, hai tay buông thõng như bị gãy” ở đây nỗi đau tinh thần được cảm nhận bằng nỗi đau thể xác. Thì ra có một nỗi đau chẳng kém gì súng mìn đạn dược, thì ra sự quay lưng từ chính người thân yêu ruột thịt có thể kéo người ta từ bầu trời hạnh phúc, hi vọng xuống thung lũng đau thương như vậy. Đôi tay dang rộng để chào đón con nhưng nhận lại chỉ là một khoảng trống. Một khoảng trống vô hình mà lại trĩu nặng ngàn cân, làm cánh tay từng gánh vác bao đầu súng, tiêu diệt kẻ thù giờ đây mất hết sức lực và đôi chân từng vượt mọi hang sâu hốc đổ cheo leo chỉ có thể “đứng sững lại”. Phải chăng vì cả cõi lòng người cha ấy đã bị vùi trong thất vọng ập đến quá đỗi bất ngờ? Ngược lại với những mong đợi của ông, ngược lại với khung cảnh thường thấy của những cuộc đoàn viên, hành động bỏ chạy đi của bé Thu còn khiến người cha ấy tan vỡ hơn cả một cuộc chia ly.

Nhưng tình phụ tử sâu nặng nào dễ lụi tàn, ông Sáu vẫn kiên trì dùng tấm lòng chân thành của mình làm chất củi, đốt lên ngọn lửa yêu thương ấm áp để truyền đến, sưởi ấm cho con. Hai ngày ở nhà ông chả dám đi đâu xa chỉ quanh quẩn dỗ dành con. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Mặc kệ những lời nói cử chỉ vỗ về làm thân bé Thu vẫn một mực tỏ ra thờ ơ lạnh lùng. Ông càng xích lại con bé lại càng lùi xa, ông càng yêu thương con bé lại càng lảng tránh. Ông thèm ước được nghe một tiếng “ba” nhưng gọi ông vào ăn cơm con bé cũng nói cộc lốc, phải chắt nước nồi cơm đang sôi nó cũng nhất quyết không chịu nhờ ông. Bao tiếng đạn nổ bom rơi khốc liệt, ám ảnh người chiến sĩ ấy gắng vượt qua chỉ mong ngày trở về đổi lấy tiếng “ba” từ đứa con thân yêu nhất. Nhưng giờ đây, con gọi cha là “người ta”, chẳng hơn chẳng kém gì người dưng nước lã! Cách cư xử ấy, thái độ ấy của bé Thu, hẳn là đã cứa sâu vào lòng ông Sáu, để lại vết xước lớn, nhức nhói hơn cả vết thẹo trên gương mặt. Khổ tâm