Mối quan hệ khăng khít giữa văn học và hiện thực dường như đã được nhân loại quan tâm từ thời cổ xưa. Tuy vậy, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với nền văn học dân tộc mỗi thời điểm là khác nhau, nếu khơi sâu vào vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực với các đặc trưng, các quy định nhiều dạng, nhiều kiểu thì nảy sinh nhiều khía cạnh cần xem xét và bàn bạc. Đây là một nguyên lý cơ bản mà mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải, đương nhiên đây cũng là một vấn đề phức tạp, bởi lẽ dường như suốt quá trình phát triển của tư duy lý luận từ xưa đến nay chưa bao giờ người ta tìm thấy một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về phản ánh hiện thực của văn học.
Ở ta, sau khi thống nhất đất nước, đặc biệt từ những ngày đầu đổi mới (khoảng cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX), vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đã thu hút sự quan tâm chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu lý luận cũng như sáng tác văn học. Bởi lẽ, quan hệ giữa văn học và hiện thực là vấn đề trung tâm của lý luận văn học, tháo gỡ được nó sẽ góp phần tích cực trong việc nhìn nhận lại một loạt những vấn đề quan trọng khác quyết định đến chiều hướng phát triển của một nền văn học. Luận giải quá trình vận động thay đổi hệ hình tư duy lý luận văn học thời kỳ đổi mới nhìn từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực thiết nghĩ là để tiếp tục khẳng định và phát huy thành tựu của văn học nói chung và lý luận văn học nói riêng trong thời kỳ đổi mới.
Trong một thời gian dài trải qua mấy chục năm kháng chiến, nhiều thế hệ những người cầm bút sáng tác, nghiên cứu, phê bình văn học, và bạn đọc ở ta đều cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của văn học là phản ánh hiện thực. Hiện thực là cái “dâng sẵn”, chỉ chờ đợi nhà văn “phản ánh” vào tác phẩm. Hiện thực trong tác phẩm và hiện thực ngoài cuộc sống là một, đó là cái mà người ta phải sờ tận tay, nhìn tận mắt. Nếu hiện thực trong tác phẩm không giống với hiện thực ngoài cuộc sống thì tác phẩm không được tán dương, không được cộng đồng thừa nhận. Một thói quen đơn giản phổ biến trong cách tiếp nhận của cộng đồng: thích chăm chăm đối chiếu hiện thực trong tác phẩm nghệ thuật với hiện thực ngoài cuộc sống. Và quan niệm này đã trở thành một cái “chuẩn” để đánh giá giá trị của tác phẩm, “đo” nhân cách, tài năng của nhà văn. Cách nhìn hạn hẹp trên là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên tình trạng nghèo nàn của văn học, đã đến lúc nó không còn thích ứng với thời đại mới - thời đại có nhiều đổi thay, xuất hiện nhiều nhận thức mới về con người và xã hội, thời đại tiếng nói dân chủ, tự do bên trong của người cầm bút được khích lệ.
Những người đầu tiên nhận thấy lực cản của cách quan niệm xơ cứng khiến ngòi bút không thể nào cất cánh, chính là những người sáng tác, hơn nữa lại là những cây bút lão luyện trưởng thành từ một giai đoạn vừa trải qua nhiều biến động của lịch sử dân tộc. Năm 1978, đất nước vừa thống nhất, không khí hân hoan chiến thắng vẫn tràn ngập, những trang viết về chiến tranh còn nóng hổi, nhưng Nguyễn Minh Châu đã bắt đầu trăn trở, lo lắng. Ông nhận thấy có điều gì bất ổn của những trang viết mà chính ông và đồng đội đã từng sống chết vì nó. Cô Tuyết Mai dạy Ngữ văn. Nguyễn Minh Châu hoài nghi: “Nhìn lại những tác phẩm viết về chiến tranh của ta, các nhân vật thường khi có khuynh hướng được mô tả một chiều, thường là quá tốt, chưa thực. Hình như tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đời sống thực thì lại có thể tạm thời giấu mình trên trang sách. Vì ý thức cổ động kháng chiến một phần, một phần khác có phải do quan niệm sơ lược về nhân vật anh hùng?”. Nỗi niềm của Nguyễn Minh Châu cho thấy ông đã nhận ra hạn chế của khuynh hướng sáng tác mô phỏng thực tế, sự thụ động của nghệ sĩ là do tình trạng “bao cấp” về tư tưởng mà ra. Thái độ hoài nghi khoa học đầy trách nhiệm với nghề của Nguyễn Minh Châu chính là khởi đầu cho một cách nhìn mới về hiện thực trong nghệ thuật. Quan niệm về cuộc sống và con người không còn đơn giản, hiện thực trong văn học được nhà văn nhận thức ở cấp độ mới: đó là một hiện thực đa chiều, con người và số phận của nó trong cõi nhân sinh đầy những “mảnh vỡ” này không thể chỉ có cái tốt, cái lý tưởng để chiêm ngưỡng như trong sử thi, nó cần được soi chiếu từ nhiều góc độ trong đời thường với những mặt đối lập nhau và luôn song hành bên nhau, thậm chí gắn chặt nhau: tốt và xấu, được và mất, cao thượng và thấp hèn, thiện và ác... Nếu nhà văn chỉ nói cái tốt, cái được, cái cao thượng, cái thiện thì cũng chỉ nói lên được một phần sự thật mà thôi.
Quan điểm lý luận về vấn đề văn học và hiện thực của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới luôn nhất quán. Tháng 12/1987 Nguyễn Minh Châu công bố tuyên ngôn nghệ thuật: Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Với tiểu luận này Nguyễn Minh Châu đã tự đưa ra một quyết định dứt khoát: đoạn tuyệt với lối văn minh họa. Nguyễn Minh Châu chỉ rõ căn nguyên sâu xa của tư duy nghệ thuật ấu trĩ, hạn hẹp một thời. Từ những trải nghiệm quý giá trên lộ trình văn học nhọc nhằn ba mươi năm cầm bút, Nguyễn Minh Châu với những trăn trở, băn khoăn, thậm chí xót xa, đau đớn, đã nỗ lực bứt thoát, vượt mình để đi đến một tuyên ngôn nghệ thuật quả cảm với nhiều giá trị tư tưởng mới. Nhà văn là người cất tiếng nói ban đầu báo hiệu cuộc chiến đấu cam go giữa cái mới, cái tiến bộ phù hợp thời đại và cái cũ, cái bảo thủ, trì trệ chính thức bắt đầu.
Với tinh thần phê phán để đổi mới thật sự, cũng giống như Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân, Lê Lựu... và nhiều nhà văn khác cũng đã khẳng định điều then chốt nhất phải tháo gỡ trong tư duy của lý luận văn học lúc này là cần phải thay đổi quan niệm đánh đồng hiện thực của cuộc sống với hiện thực trong nghệ thuật, tuyệt đối hóa hiện thực, coi “hiện thực đã tốt, đẹp đến mức không còn gì có thể tốt, đẹp hơn...” - chính nhận thức phiến diện này là nguyên nhân dẫn đến sự hạ thấp vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật, là rào cản lớn nhất để văn học ta không thể vươn lên một tầm cao mới.
Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm là kết quả của quá trình người nghệ sĩ tự do tâm hồn, tự do trí tuệ để sáng tác theo quy luật của cái đẹp. Có thể đó là hiện thực của tâm linh, hiện thực của vô thức và kể cả “ảo ảnh của hiện thực” (Ch.Caudwell). Hiện thực ấy không nhất thiết phải trùng khít với hiện thực cuộc sống đang diễn ra trước mắt chúng ta. Hiện thực trong nghệ thuật là hiện thực do nhà văn tự thấy bằng kinh nghiệm sống và “văn học tái hiện mọi hiện tượng đời sống và nhìn nhận, phán xét chúng dưới con mắt cảm nhận có tầm văn hóa. Năng lực cảm nhận một cách có văn hóa là năng lực người nhất, là sản phẩm của văn hóa chứ không phải là bẩm sinh”.
Thế giới nghệ thuật tồn tại dưới dạng ý niệm đã được cảm xúc hóa. Điều này lý giải vì sao trong văn học thời kỳ đổi mới ở nước ta các biện pháp tưởng tượng, kì ảo được sử dụng khá phổ biến. Công thức miêu tả cuộc sống “giống như thật” không còn là chuẩn mực duy nhất. Con người được miêu tả với tất cả mọi cung bậc: xã hội, tự nhiên, bản năng, tâm linh, vô thức... Những cây bút như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Ma Văn Kháng là những nhà văn sớm bắt kịp nguồn mạch tư duy mới này. Với vốn kinh nghiệm sống và với năng lực tư duy của mình, người nghệ sĩ có thể tự sáng tạo nên một hiện thực nghệ thuật riêng, mang đầy cá tính và bản sắc, tạo ra những thế giới chưa từng có nhằm thể hiện quan niệm nhà văn về cuộc sống, thể hiện những ý nghĩa của hiện thực được nhà văn phát hiện.
Văn học nghệ thuật không chỉ phản ánh hiện thực mà còn là sáng tạo, đối thoại và dự báo về hiện thực. Hiện thực đời sống diễn ra ngày một phong phú và hết sức phức tạp, giao lưu và hợp tác văn hóa phát triển mạnh, những vận động theo xu hướng tích cực của tư duy lý luận thuộc vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đã “mềm hóa” một quan niệm xơ cứng: Nếu trước đây trong quan hệ văn học và hiện thực thường nhấn mạnh vào sự phụ thuộc, phục tùng của văn học đối với hiện thực, thì ngày nay người ta nhấn mạnh, quan tâm tới phương diện chủ thể sáng tạo của người nghệ sĩ.
Với người cầm bút sáng tác, xóa bỏ việc phản ánh đơn điệu đã giúp nhà văn nhận ra mình không phải chỉ là người “thư kí trung thành” của thời đại, nhiệm vụ của sáng tạo văn học không phải chỉ là để tái hiện những chặng đường lịch sử đã qua. Cao hơn, nhiệm vụ của người cầm bút là phải làm sao cho ra đời những tác phẩm độc sáng, đặt ra được những vấn đề thiết cốt của cuộc sống với những cách tân nghệ thuật đầy bản lĩnh và bản sắc. Cụm từ “sự thật trong nghệ thuật” được hiểu một cách toàn diện hơn, sự thật đó còn phải là sự thật của thái độ, cách nhìn, cách đánh giá của nhà văn với những hiện thực mà nhà văn “nghiền ngẫm”, có nghĩa là nó không đơn giản chỉ là sự thật của những tính cách và sự kiện được mô tả như trước đây quan niệm. Nó phải mang hơi thở của một thời nhưng nó cũng là trăn trở của mọi thời, nó được viết ra từ tâm sự gan ruột của người viết. Tuy vậy để ngòi bút của mình chạm đến được “sự thật” của chân lý nghệ thuật người viết cần phải dũng cảm dấn thân. Cái yêu, cái ghét của nhà văn phải đúng, nhà văn phải biết và dám nói thật. Yêu, ghét trong văn chương cũng có công lý, tính khách quan, yêu cái đáng yêu, ghét cái đáng ghét đó là một sự biểu hiện quan trọng của sự thật trong văn học.
Như vậy quan niệm mới về hiện thực đã tôn vinh vai trò của chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng đưa ra lời cảnh báo với chủ thể sáng tạo: cái tâm của người viết không đơn thuần chỉ là bộc lộ bề mặt tình cảm nhân văn hay nhân đạo đối với cuộc đời này mà còn là chiều sâu và sự mãnh liệt của tình cảm ấy. Nhà văn phải có tâm huyết xả thân vì nghề, đau đáu, trăn trở, dám lăn lóc, thăng trầm để sáng tạo. Vì chỉ có vượt thoát được những cảm xúc mòn sáo, giải phóng tư duy một cách thực sự thì mới mong có những trang viết để đời, những trang viết không bị cằn cỗi, xác xơ.
Trước đây, xuất phát từ quan niệm hiện thực “đóng” nên một thời người ta cho rằng đọc tác phẩm tức là đọc xem nhà văn đã “phản ánh hiện thực” ra sao, người đọc bị trói buộc vào việc phải so sánh, đối chiếu trực tiếp hình tượng tác phẩm với nguyên mẫu ngoài cuộc đời. Hiện thực trong tác phẩm có giống y hệt, có “ngang tầm” hiện thực đang hiện diện hay không. Hiện nay, từ quan niệm hiện thực “mở”, tư duy lý luận cho rằng tiếp nhận tác phẩm là đối thoại với tác giả trên mọi lĩnh vực. Trong quá trình tiếp nhận, người đọc có thể gặp gỡ tác giả, cũng có thể cách xa với tác giả. Bạn đọc và nhà văn phải đồng sáng tạo, giữa người sáng tác tác phẩm và người đọc tác phẩm có vai trò bình đẳng như nhau. Chính thế giới hiện thực lấp lánh, muôn màu trong tác phẩm do nhà văn sáng tạo lại là thế giới mà người tiếp nhận cũng phải tiếp tục sáng tạo.
Baitap24h.com