Vẻ đẹp ngôn ngữ trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân được thể hiện qua những hình ảnh sống động, âm điệu hài hòa và lối văn trữ tình giàu cảm xúc. Ngôn ngữ không chỉ phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của tác giả.
Sông Đà (1960) là một dấu mốc quan trọng trong hành trình sáng tác kéo dài nửa thế kỷ của nhà văn Nguyễn Tuân, đánh dấu sự chuyển đổi từ cái “tôi” cá nhân sang cái “ta” tập thể. Theo nhà thơ Pháp P. Éluard, ông đã đi từ "chân trời của một người đến chân trời của tất cả". "Người lái đò Sông Đà" (trích từ SGK Ngữ văn 12) là một trong những bài tùy bút xuất sắc, một lần nữa khẳng định phong cách tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân. Đã có nhiều bài viết về "Người lái đò Sông Đà" từ các khía cạnh nội dung đến hình thức, cho thấy tác phẩm này đã được độc giả và giới phê bình tiếp cận một cách khá toàn diện và sâu sắc. Tuy nhiên, văn chương là lĩnh vực vô tận. Một tác phẩm thành công là tác phẩm để lại những ấn tượng khó phai, những liên tưởng sâu xa, và hơn thế, là những ám ảnh nghệ thuật, những phát hiện vượt thời gian và không gian.
"Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân có ba yếu tố ưu việt: con người, thiên nhiên và ngôn từ. Hai yếu tố đầu đã được nhiều nhà phê bình phân tích kỹ lưỡng. Nhưng ngôn từ, như một yếu tố nổi trội trong sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và "Người lái đò Sông Đà" nói riêng, có thể vẫn còn không gian rộng để khám phá. Gọi Nguyễn Tuân là một bậc thầy ngôn từ không có gì quá đáng. Thậm chí, có người còn sử dụng từ "xảo thủ" hay "phù thủy" khi nói về khả năng điều khiển ngôn ngữ của ông.
Đọc "Người lái đò Sông Đà" kỹ lưỡng từ góc nhìn văn hóa sẽ thấy cái nhã thú văn chương mà nhà văn truyền vào lòng ta: cái đẹp của cuộc sống, thiên nhiên, con người. Nhưng những cái đẹp đó đi qua, thẩm thấu và ánh lên qua ngôn từ. Không phải tất cả, nhưng độc giả tinh tế và giới phê bình đều nhận ra "tính nhịp điệu" trong văn xuôi Nguyễn Tuân. "Nhịp điệu" (rhythm) trong văn xuôi được hình thành trên cơ sở sự phân tách văn bản thành chương, đoạn, câu văn dài ngắn, khúc khuỷu tạo nên nhịp điệu cảm nhận đời sống.
Kiến trúc của câu văn trong "Người lái đò Sông Đà" tạo nên nhịp điệu văn xuôi đặc biệt. Nguyễn Tuân viết câu văn như đắp từng tảng đất trên trang giấy, từng từ có cái uy nghi riêng. Câu văn của ông nặng, nhịp điệu nặng, khiến cho ý nhẹ sẽ trở nên vô nghĩa. Văn Nguyễn Tuân tầng tầng lớp lớp, nặng trĩu ý, đa tầng nghĩa. Nhưng nếu nói văn ông chỉ thuần "nhịp điệu nặng" thì chưa đủ. "Người lái đò Sông Đà" có cả "nhịp điệu thư duỗi" khi mô tả Sông Đà trữ tình. Văn ông bao hàm cả nhịp điệu nặng và thư duỗi, như sóng trong bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh – "dữ dội và dịu êm", "ồn ào và lặng lẽ".
Nguyễn Tuân còn sử dụng nhịp "khúc khuỷu" trong văn xuôi, tạo nên sự đa dạng trong nhịp điệu văn bản. Những câu văn ngắn chen giữa những câu dài tạo ra nhịp điệu như ngựa phi, năng động nhưng không ồn ào. Văn Nguyễn Tuân hối thúc tư duy người đọc.
Nhịp điệu văn chương phản ánh "điệu tâm hồn" của nghệ sĩ ngôn từ. Nguyễn Tuân không sống nhanh nhưng cũng không chậm. Ông là con người đa nhân cách, một khối mâu thuẫn nhưng thống nhất giữa hướng ngoại và hướng nội, kiêu hãnh và khiêm tốn, bảo thủ và đổi mới, an nhiên và dấn thân.
Nguyễn Tuân luôn yêu quý và trân trọng cái đẹp. Con đường đến với cái đẹp của ông là sáng tạo ra nó không như một phương tiện mà như một mục đích. Nguyễn Tuân chính là nghệ sĩ đích thực suốt cuộc đời tìm kiếm cái đẹp và cái thật bằng nghệ thuật ngôn từ.