Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân được khắc họa qua những hình ảnh tuyệt đẹp, từ cảnh sắc thiên nhiên đến sự giao hòa giữa con người và dòng sông. Sông Đà không chỉ là bức tranh sống động mà còn là biểu tượng cho tâm hồn lãng mạn của người Việt.
Từ "Vang bóng một thời" (1940) đến "Sông Đà" (1960), con đường sáng tạo văn chương của Nguyễn Tuân kéo dài 20 năm. Tùy bút "Sông Đà" làm cho hình ảnh văn học của Nguyễn Tuân thêm sáng rực. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, "Sông Đà" khẳng định vị trí quan trọng của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa, khiến người đọc thêm yêu mến và tự hào.
"Người lái đò Sông Đà" trong tập tùy bút này thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân ở một tầm cao mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện và miêu tả con người Tây Bắc với những phẩm chất tuyệt đẹp, mà ông gọi là "chất vàng mười" của tâm hồn. Yêu thiên nhiên, ông miêu tả sông Đà với những phát hiện tinh tế và độc đáo về núi sông, cỏ cây trên vùng đất bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Bút pháp của Nguyễn Tuân rất linh hoạt. Ông miêu tả sông Đà "hung bạo và trữ tình" qua cái nhìn của ông lái đò dũng cảm, tài hoa. Ông cũng nhắc đến sông Đà như một "cố nhân" sau những ngày dài đi núi, và khi gặp lại con sông, ông cảm thấy "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm." Đôi khi, ông từ trên tàu bay nhìn xuống Đà Giang bâng khuâng, và lúc khác, ông trôi theo con đò êm ả để tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ của miền trung lưu Sông Đà. Đây là một đoạn tùy bút đẹp, gợi tả vẻ đẹp thơ mộng của miền trung lưu Sông Đà như một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi hiếm có.
Nguyễn Tuân sử dụng ngôn từ phong phú để miêu tả cảnh vượt thác, với giọng văn mạnh mẽ, nhịp vần gấp. Trong đoạn văn miêu tả vẻ đẹp êm đềm của Đà Giang, giọng văn và nhịp điệu trở nên nhẹ nhàng, lâng lâng. Vẻ đẹp thơ mộng của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ, như một không gian nghệ thuật "lặng tờ", gợi lên những cảm xúc yên bình và lãng mạn.
Nguyễn Tuân sử dụng so sánh và ẩn dụ để làm nổi bật vẻ đẹp hoang dại và hồn nhiên của đôi bờ sông Đà. Ông thả hồn mình vào thiên nhiên và tạo ra những liên tưởng đầy chất thơ. Sự thay đổi từ không gian hoang dã đến mộng mơ là một phần của cuộc đối thoại tinh tế giữa ông khách sông Đà và đàn hươu, tạo nên một bài thơ trữ tình kì diệu.
Cuối cùng, Nguyễn Tuân mở rộng lòng mình với dòng sông và thưởng thức vẻ đẹp của sông Đà qua những chi tiết nhỏ như con cá dầm xanh và con đò. Văn của ông không chỉ mang lại nhã thú mà còn để lại dư vị sâu lắng, với tình yêu sông núi và con người Việt Nam.
Tuy chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà", đoạn văn này cho thấy cái hay và cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân, với sự sáng tạo và tài hoa trong việc miêu tả cảnh vật và sử dụng ngôn từ.