BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Nhan đề Người lái đò sông Đà không chỉ phản ánh chủ đề chính của tác phẩm mà còn thể hiện vai trò quan trọng của người lái đò trong việc kết nối con người với thiên nhiên. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của bản lĩnh, tâm hồn và tình yêu quê hương của người Việt.

Một trong những "chiếc chìa khóa" quan trọng giúp người đọc khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm chính là Lời đề từ. Ví dụ, trong bài thơ nổi tiếng “Tràng giang”, Huy Cận có lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Hay câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được Nguyễn Minh Châu dùng làm lời đề từ cho tác phẩm “Dấu chân người lính”. Trong bài thơ “Ngày gặp gỡ”, Hồ Dzếnh đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ:

“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò”.

Lời đề từ cho tập “Nhật ký trong tù” là bài thơ in trên bìa sách:

“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”.

Lời đề từ có chức năng cơ bản là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đồng thời dự báo nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Nó chứa đựng cái hồn và thần thái của tác phẩm văn học. Đối với tác giả, lời đề từ không chỉ khơi nguồn cảm hứng mà còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và ý đồ gửi đến độc giả. Đối với người đọc, lời đề từ là điểm nhấn nghệ thuật, giúp định hướng khi tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Lời đề từ không phải là thứ trang trí mà là chìa khóa giúp người đọc mở cánh cửa khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, nếu bỏ qua hoặc khai thác sơ sài lời đề từ, độc giả sẽ mất đi nhiều vẻ đẹp của công trình nghệ thuật.

Một trong những lời đề từ nổi bật trong văn chương Việt Nam là của nhà văn Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Ông đã mượn câu của nhà thơ cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích về sông Đà:

“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”.

Câu thơ của nhà thơ Ba Lan thể hiện niềm cảm xúc mãnh liệt, với tiếng hát trên dòng sông có thể là của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, hoặc là sự ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ này thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu sâu sắc của nhà văn đối với thiên nhiên và con người trên sông Đà.

Sau Cách mạng, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là vẻ đẹp của con người và cuộc sống hiện tại, của lao động và chiến đấu. Vẻ đẹp của con người không lạc lõng mà là những người lao động bình dị, như người lái đò sông Đà – một hình mẫu về trí dũng và nghệ thuật vượt thác.

Lời đề từ thứ hai, hai câu thơ chữ Hán, thể hiện nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng sông Đà chảy theo hướng bắc. Điều này gợi lên hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của nhà văn, thể hiện sự độc đáo và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Từ đặc điểm riêng của sông Đà, Nguyễn Tuân đã tái hiện hình tượng sông Đà như một sinh thể đa dạng và độc đáo. Lời đề từ không chỉ bộc lộ khát vọng mãnh liệt của nhà văn trong việc khám phá thiên nhiên mà còn khẳng định phong cách nghệ thuật riêng biệt của ông. Vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình của sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện một cách chân thực và tỉ mỉ.

Với hai lời đề từ, Nguyễn Tuân thể hiện cả cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo trong “Người lái đò sông Đà”, biến mình thành họa sĩ của vẻ đẹp tinh khôi của tạo hóa.