BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Bài thơ Hầu trời của nhà thơ Tản Đà mang đậm dấu ấn của phong cách thơ lãng mạn và triết lý nhân sinh sâu sắc.

Bài thơ Hầu trời - Tản Đà

Hầu trời

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thế!

Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

 

Nguyên lúc canh ba nằm một mình,

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.

Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,

Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

 

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng

Ra sân cùng bóng đi tung tăng

Trên trời bỗng thấy hai cô xuống

Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

 

"Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!

Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng

Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”

 

Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!

Người tiên nghe tiếng lại như quen!

Văn chương nào có hay cho lắm

Trời đã sai gọi thời phải lên.

 

Theo hai cô tiên lên đường mây

Vù vù không cánh mà như bay.

Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ

Thiên môn đế khuyết như là đây!

 

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

Trời sai tiên nữ dắt lôi dâ.y.

Ghế bành như tuyết vân như mây

Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.

 

Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc

Trời sai pha nước để nhấp giọng.

Truyền cho "văn sĩ đọc văn nghe!"

"Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc".

 

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

 

Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay.

 

- "Bẩm con không dám man cửa Trời

Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển Khối tình văn thuyết lý

Hai Khối tình con là văn chơi

Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết

Đài gương, Lên sáu văn vị đời

Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch

Đến quyển Lên tám nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chử biết con in ra mấy mươi?”

 

Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

“Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

 

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!”

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?

Người ở phương nào, ta chưa biết".

 

“Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu và Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

 

Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu

Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.

Thiên tào tra sổ xét vừa xong

Đệ sổ lên trình Thượng đế trông

- “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

 

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,

Trời định sai con một việc này

Là việc “thiên lương” của nhân loại,

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

 

- “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều.

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo.”

 

Rằng: “Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

 

Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra

Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn

Xe trời đã chực ngoài thiên môn

Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt.

 

Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.

Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

Theo đường không khí về trần ai.

 

Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng

Trăng tà đưa lối về non Đoài.

Non Đoài đã tới quê trần giới,

Trông lên chư tiên không còn ai.

 

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy

Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi

Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đêm lên hầu Trời.

Tản Đà

Đôi nét về tác giả Tản Đà

Tản Đà (1889- 1939) tên khi sinh là Nguyễn Khắc Hiếu

Ông sinh ra và lớn lên trong thời buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống, sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn người của hai thế kỉ

Ông học Hán học từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi Hương ông bỏ thi chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ

Các tác phẩm chính:

  • Thơ: Khối tình con I, II
  • Truyện viễn tưởng: Giấc mộng con I, II
  • Luận thuyết: Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ
  • Thơ và văn xuôi: Còn chơi
  • Tự truyện: Giấc mộng lớn, Thơ Tản Đà

Phong cách nghệ thuật:

  • Điệu tâm hồn mới mẻ, cái tôi lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh vừa cảm thương, ưu ái
  • Có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa
  • Thơ văn ông chính là gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại

Khái quát về tác phẩm - bài thơ Hầu trời

- Xuất Xứ: Bài thơ này được xuất bản vào năm 1921 trong tập thơ mang tên "Còn chơi."

- Bố Cục:

Bài thơ này được chia thành ba phần để kể một câu chuyện hấp dẫn và sâu sắc: Bố cục này giúp tạo nên một cấu trúc hấp dẫn và có sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cũng tạo điểm nhấn cho tài năng và sự sâu sắc của thi nhân trong việc tạo ra một tác phẩm thơ độc đáo.

+ Phần 1 (từ đầu đến sướng lạ lùng): Ở phần này, người đọc sẽ được dẫn nhập vào câu chuyện, nơi mà tác giả giới thiệu về tình huống và bối cảnh của câu chuyện.

+ Phần 2 (tiếp đến anh gánh lên đây bán chợ trời): Trong phần này, thi nhân của câu chuyện thể hiện sự tài năng của mình khi đọc thơ cho Trời và các thần tiên, tạo nên một khung cảnh tượng hình đầy màu sắc và tinh tế.

+ Phần 3 (còn lại): Phần cuối cùng là nơi thi nhân tiếp tục cuộc trò chuyện với Trời, giúp thể hiện sự phát triển của câu chuyện và sự nối tiếp trong tình huống và tâm trạng của nhân vật chính.

- Giá trị nội dung: Thể hiện sự tỏa sáng của cái tôi cá nhân: Bài thơ này là một bức tranh sống động về sự phô trương và cái tôi mạnh mẽ của tác giả. Tác phẩm này không chỉ đơn thuần là việc thể hiện tính cách ngông ngạo và phóng túng, mà còn thể hiện sự tự tin và yêu thương về tài năng riêng, và tìm kiếm giá trị thực sự trong cuộc sống. Nó là sự thể hiện của sự khát khao vươn lên và được thừa nhận giữa cuộc hành trình của mỗi con người.

- Giá trị nghệ thuật: Sáng tạo nghệ thuật đa dạng. Bài thơ này sở hữu một loạt các yếu tố nghệ thuật độc đáo và đa dạng: Thể thơ thất ngôn trường thiên tự do, tác giả đã sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên với sự tự do đáng kể, tạo cơ hội cho sự sáng tạo và thể hiện ý tưởng một cách tự nhiên và thoải mái. Giọng điệu thoải mái tự nhiên, bài thơ mang một giọng điệu tự nhiên và thoải mái, tạo nên một không gian thơ ca tự do và hóm hỉnh. Ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh, tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị và sống động để thể hiện ý tưởng và tạo hình nhân vật. Sự hóm hỉnh cũng được thể hiện qua ngôn từ, tạo nên một tác phẩm vui nhộn và cuốn hút. Tất cả những yếu tố này kết hợp lại tạo nên một tác phẩm nghệ thuật phong phú và đa chiều, đánh dấu sự sáng tạo độc đáo của tác giả trong việc thể hiện nội dung và ngôn ngữ trong bài thơ.

Nhận định

Một số nhận định về tác giả, tác phẩm

1. Nguyễn Tuân: Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?

2. Ngô Tất Tố: Trong cái trang thi sĩ của cuốn "Việt Nam văn học sử" sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà là một người đứng đầu của thời đại này.

3. Khái Hưng: Nhưng trong làng văn nước ta, được nhiều người yêu mến thời còn sống, dễ mới có Tản Đà.

4. Hoài Thanh – Hoài Chân: Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa.

5. Vũ Bằng: Tôi sợ ông như một ông tiên.

6. Xuân Diệu: Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi.

7. Lê Thanh: Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối… Ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ.

► Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà