BAITAP24H.COM Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Trong bài thơ "Chiều tối," nhãn tự "hồng" không chỉ là điểm sáng về mặt hình thức mà còn là linh hồn của tác phẩm. Nó phản ánh sự chuyển biến cảm xúc mạnh mẽ của Hồ Chí Minh từ nỗi buồn hiu quạnh đến sự ấm áp, sinh động của cảnh vật nơi xóm núi.

Nhãn tự trong bài thơ Chiều tối

Mẫu số 1

Ở Senegal, với mẩu gỗ mun, người ta có thể tạo ra hàng trăm nghìn hình tượng nghệ thuật. Trong tranh thủy mạc, chỉ với vài nét, người họa sĩ có thể phác họa cả vũ trụ càn khôn. Điều này dường như là bí quyết của “nghệ thuật nhà nghèo,” một bảo bối cho những ai đã chán ngấy xài sang: từ vật liệu, thời gian đến tư tưởng. Đây là lý do chúng ta thường nhắc đến “nhãn tự” trong thơ. Thơ ca, với dung lượng khiêm tốn, phải thực sự hàm súc để phản ánh thế giới hiện thực và tình cảm phức tạp của con người. Nguyễn Duy đã từng viết:

“Tôi nhặt nhạnh li ti bụi chữ

Đốt lò tâm linh chơi trò luyện chữ”

“Nhãn tự” không khác sao Bắc Đẩu sáng chói giữa ngàn sao, như trụ cột đứng giữa cung điện thi ca. Trong bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh, hai câu cuối Bác viết:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Có lẽ đây là một bài thơ tả cảnh hiếm hoi lấy hình ảnh con người làm trung tâm, khác hoàn toàn với thơ xưa khi con người thường vắng bóng hoặc chịu sự chi phối của ngoại cảnh, hòa vào thiên nhiên, tĩnh lặng và thụ động. Như trong bài thơ “Giang tuyết” của Liễu Tông Nguyên:

“Ngàn non bóng chim tắt

Muôn nẻo dấu người không

Thuyền đơn ông tới nón

Một mình câu tuyết sông”

Đọc hai câu thơ cuối dễ dàng thấy Bác đã có phát hiện mới mẻ trong bút pháp miêu tả thời gian: sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối vừa chấm dứt thì lò than cũng vừa rực hồng. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào bóng đêm âm u, xua tan cái lạnh lẽo để thắp lại ánh sáng ấm áp. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có vị trí đặc biệt, được xem là “nhãn tự” của toàn bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng nhận xét: “Với một chữ hồng, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã.”

Hai câu thơ trước là bức tranh miền sơn cước xám xịt, thấm đượm trong lời thơ là sự mệt mỏi của cánh chim lạc bầy, là nỗi buồn của đám mây lững lờ. Đến hai câu thơ cuối, lại hiện lên bức tranh màu hồng đậm tính nhân văn cao cả. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người”

Bác đang khẳng định một chân lý rằng: chỉ có con người mới tạo nên sự thay đổi kỳ diệu. Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn từ lòng nhân ái, từ tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Trong thơ Bác rất kị bóng tối và luôn hướng về những thứ cao cả, đẹp đẽ. Trong bài “Giải đi sớm,” chữ “hồng” cũng đã xuất hiện:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”

Con đường cách mạng Việt Nam từ đêm trường nô lệ đến con đường giải phóng dân tộc vinh quang cũng được biểu tượng qua ánh hồng:

“Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”

Chữ “hồng” đã tạo nên điểm sáng nghệ thuật, đem lại giá trị thẩm mỹ, xua tan cái lạnh lẽo, gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc sống. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh, là chất thép của tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.

Mẫu số 2

Trong thơ cổ điển, đặc biệt là trong thơ Đường luật và thể tứ tuyệt, thường xuất hiện nhãn tự (chữ mắt) như là điểm nhấn, linh hồn của bài thơ. Ví dụ, chữ “sầu” trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu mang đến nỗi buồn sâu lắng và rộng lớn. Trong khi đó, chữ “hồng” trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh lại nổi bật như một ngọn lửa ấm áp, ánh sáng trong cảnh chiều tối khi nhà thơ trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo lánh.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Ánh lửa hồng trong lò than

Lúc ấy, trời đã xế chiều. Hồ Chí Minh bị giải qua một khu rừng vắng vẻ, ở nơi đất khách quê người. Chỉ có một cánh chim mỏi mệt bay về rừng tìm chỗ nghỉ ngơi và một chòm mây đơn độc trôi trên bầu trời, không biết sẽ về đâu. Tâm trạng người tù cũng tương tự như vậy, mệt mỏi và rã rời sau một ngày dài bị xiềng xích, không có nơi dừng chân. Nỗi buồn về quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng chí thấm vào cảnh vật, làm cho chiều tối càng thêm vắng vẻ, hiu quạnh và lạnh lẽo.

Tuy nhiên, tứ thơ chuyển biến khi người tù đi qua một xóm núi bên đường. Cảnh vật không còn sự hiu hắt và lạnh lẽo của khu rừng, mà bỗng trở nên ấm áp và sinh động trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm núi.

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Nhân vật lao động hiện lên tươi tắn, đầy sức sống dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, như hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” gợi lên vẻ đẹp giản dị và ấm áp của một ngọn lửa hồng trong lò than. Ánh lửa không chỉ xua tan sự lạnh lẽo của cảnh chiều tối mà còn làm sáng rực khuôn mặt cô gái, tạo nên một điểm nhấn tươi sáng trong bài thơ. Chữ “hồng” chính là trung tâm của sự chuyển đổi, làm bừng sáng cả bài thơ.

Chữ “hồng” ấy không chỉ là một yếu tố thị giác mà còn biểu thị ngọn lửa tình yêu cuộc sống và lòng nhân ái vĩnh cửu trong tâm hồn nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất, khi cuộc sống của người tù không còn nhiều ánh sáng, tình yêu và lòng trân trọng của Bác đối với niềm vui nhỏ bé của người lao động vẫn hiện lên rực rỡ. Đây là minh chứng cho sự trân trọng những hạnh phúc bình dị và niềm vui của người lao động, như Hoài Thanh đã nhận xét, sự trân trọng ấy mới có thể ghi lại những hình ảnh chân thực và sống động trong thơ.

► Cảm nhận bài thơ Chiều tối ngắn gọn học sinh giỏi